Wednesday, December 3, 2014

Vô minh và vô cảm

Chu Hảo

Ngày nay ít ai còn nghi ngờ rằng những thành tựu tuyệt vời của khoa học và công nghệ đã không làm cho Trái đất-ngôi nhà chung của chúng ta tươi đẹp hơn, Xã hội loài người trở nên nhân bản hơn, và Con người có cuộc sống hạnh phúc hơn... ít ra là so với kỳ vọng của nhân loại từ sau thời Phục hưng (TK 14) và nhất là sau thời kỳ Khai sáng (TK 18). Văn minh vật chất rõ ràng ngày càng cao, nhưng văn minh tinh thần có vẻ như đang xuống thấp, nhất là nhìn từ góc độ văn hóa-đạo đức xã hội. Tri thức tràn trề mà vẫn Vô minh, lòng trắc ẩn không còn đủ để ngăn ngừa sự Vô cảm. Ở phương Đông cũng thế mà phương Tây cũng thế; nước giầu và nước nghèo đều thế cả; xứ mình cũng không phải là ngoại lệ...

Hơn 2500 năm trước Đức Phật đã chứng ngộ và tuyên giảng Tứ diệu đế (Bốn sự thật cao minh) là : KHỔ (mọi nỗi khổ đau đều có nguyên nhân), TẬP (nguyên nhân gây nên khổ đau là tham, sân, si), DIỆT (có thể loại trừ được các mầm độc gây nên khổ đau ấy) bằng ĐẠO (tu hành tâm linh tích cực). Nếu mọi người trên thế gian này đều làm được đúng điều Phật dạy thì cõi Niết bàn ngay trên trần gian này đã có từ lâu. Tiếc thay số người tin vào điều Phật dạy không nhiều, những người thực sự làm theo Phật chắc chắn là ít hơn, số tu hành tâm linh đến mức chứng ngộ còn hiếm hoi hơn nữa. Chắc đó cũng là quy luật của sự phát triển. Bởi lẽ, nếu cõi Niết bàn chỉ có toàn những điều Chân Thiện Mỹ thì nó không thể tồn tại trên trần thế, vì ở chốn nhân gian có giả mới có Chân, có ác mới có Thiện, có xấu có Đẹp (Mỹ). Nhân loại chỉ mong cái tốt Đẹp nhiều hơn cái xấu xa , cái Thiện thắng cái ác, và cái Chân thực lấn át cái giả dối. Ngoài Đạo Phật, các tôn giáo khác đều có lý do tồn tại chính đáng khi tôn sùng các giá trị Chân-Thiện-Mỹ và răn đe Tham-Sân-Si để Hành tinh xanh này tươi đẹp hơn, Xã hội loài người nhân bản hơn và Con người có cuộc sống hạnh phúc hơn…

Tham (tham lam, vụ lợi, ích kỷ, …) và Sân (nóng giận, đố kỵ, ghen tỵ…) xem ra có vẻ dễ được khắc chế hơn là Si (dốt nát, mê muội, cuồng tín…). ThamSân làm sói mòn lòng trắc ẩn và gia tăng sự vô cảm. Chúng dễ được khắc chế hơn vì không ai không nhận ra sự Tham và sự Sân của mình, chỉ còn khó là ở chỗ có muốn và có đủ năng lực kiềm chế chúng không? Nói cho cùng thì ThamSân cũng là do Si mà ra, càng Si thì càng dễ ThamSân. Nhưng Si thì nhiều khi không thể tự nhận biết, bởi nó chính là sự Vô minh; tự khai minh (để rũ bỏ Vô minh) cũng khó như là tự nâng mình lên khỏi mặt đất. Cái vô minh của một cá nhân hay một tập thể có quyền lực có thể tạo ra cái Si cộng đồng thông qua tác động tâm lý đám đông hoặc dùng quyền lực áp đặt. Niềm tin u mê vào tính siêu việt của tộc người Germain của dân tộc Đức để biện minh cho việc tàn sát dân tộc khác trong thời kỳ Hitler cầm quyền là một minh chứng điển hình cho cái Si cộng đồng đã đẫn đến tội ác diệt chủng. Trước đó lịch sử loài người cũng đã từng chứng kiến một niềm tin u mê vào tính ưu việt của một giai tầng xã hội là động lực của cuộc cách mạng bạo lực để kỳ thị và loại trừ các giai tầng khác, đặc biệt là trí thức. Cái Si cộng đồng này đã sụp đổ ở nguyên quán là Liên bang Xô viết cũ, nhưng tàn dư của nó vẫn còn đó, ở đôi nơi…

Sự cố chấp, thực lòng hay dối trá cũng vậy thôi, vào một ý thức hệ lỗi thời nào đó cũng là một biểu hiện của sự Vô minh. Không tin vào Dân, không dựa vào Dân ; không đặt quyền lơị của dân tộc lên trên mọi giáo điều chủ thuyết, mọi lợi ich nhóm ... đều là Si, là Vô minh cả. Vô minh trực tiếp dẫn đến Vô cảm. Cái Vô cảm đáng sợ nhất mà chúng ta đang hàng ngày chứng kiến là sự Vô cảm của rất nhiều bộ phận trong hệ thống quyền lực trước sự bất công thê thảm mà biết bao người dân thường đang phải gánh chịu; trước sự tàn phá thậm tệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên; trước sự xuống cấp một cách nguy hại của văn hoá - giáo dục - đạo đức xã hội ...

Những biểu hiện Vô minhVô cảm như thế chỉ có thể bị hạn chế, bị đẩy lui trong một thể chế dân chủ, với một nền giáo dục nhân văn . Thể chế dân chủ đảm bảo những quyền tự do cơ bản của con người, trong đó quyền tự do bầy tỏ chính kiến của mình để làm phong phú, đa dạng và đổi mới tư duy của toàn xã hội để gạt bỏ mọi giáo điều ý thức hệ, có lẽ là quan trọng nhất. Tự do có thể là khát vọng bẩm sinh của con người, nhưng Dân chủ thì phải được giác ngộ, được rèn luyện gian truân trong thực tiễn cuộc sống mới dần dần có được. Nền giáo dục đào tạo ra những con người có tri thức hữu dụng và lòng trắc ẩn để tránh xa Vô minhVô cảm phải được xây dựng theo một triết lý hết sức nhân bản. Chẳng hạn như đề xuất của triết gia hiện đại người Pháp - Edgar Morin về sứ mạng và mục tiêu của giáo dục:

1) Hình thành những khối óc được rèn luyện tốt; đào tạo những con người có đủ năng lực tổ chức và liên kết các trí thức để mưu cầu hạnh phúc cho bản thân mình và cho toàn xã hội chứ không phải nhồi nhét kiến thức theo kiểu chất vào kho.

2) Giáo dục về hoàn cảnh con người, làm cho mọi người có ý thức sâu sắc thế nào là một con người. Dạy cho thế hệ trẻ cách sống, chuẩn bị cho họ biết cách đối mặt với những khó khăn và những vấn đề chung của cả loài người.

3) Thực tập tư cách công dân của đất nước và của toàn thế giới; có năng lực đối thoại, khoan dung trong thế giới phức hợp và đa dạng.

Để có một thể chế dân chủ hơn, một nền giáo dục lành mạnh hơn, xã hội không chỉ trông chờ vào vào sự thực thi nghĩa vụ của các cơ quan và tổ chức lãnh đạo quyền lực, mà còn hy vọng vào sự dấn thân của tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc – những người không chỉ có trình độ học vấn – chuyên môn cao, mà trước hết phải có ý thức trách nhiệm xã hội, dám công khai bày tỏ và bảo vệ chính kiến của mình.

Ngày xưa Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) là một trí thức dấn thân theo kiểu của ông : trong cuộc đời ngắn ngủi của mình ông đã gửi lên Vua Tự Đức 30 bản tấu trình đề xuất kế hoạch canh tân đất nước và khoảng 60 bản điều trần về đủ mọi thứ khác. Nhưng Vua không nghe thì đành chịu! Cùng thời với ông, Fukuzawa Yukichi (1835-1901) đã nổi lên như một ngôi sao sáng trong giới trí thức Nhật Bản thời ấy. Ông không chỉ tấu trình cho Nhật hoàng mà tìm mọi cách truyền bá tư tưởng canh tân cho đồng nghiệp, học trò và toàn xã hội. Có thể nói ông là rường cột tinh thần cho phong trào Minh trị duy tân. Sự phát triển theo các con đường khác nhau, và kết quả cũng khác nhau, của Việt Nam và Nhật Bản có lẽ đã bắt đầu từ đó. Nửa thế kỷ sau, có một lớp chí sỹ của phong trào Duy Tân và Đông kinh nghĩa thục, đứng đầu là cụ Phan Châu Trinh, đã dũng cảm đi theo con đường của Fukuzawa, chủ trương làm cách mạng văn hóa và giáo dục. Nhưng đã thất bại vì chính quyền thuộc địa đàn áp dã man.
Ngày nay chính quyền luôn luôn được khẳng định là của nhân dân, vì vậy điều kiện tấu trình, điều trần cũng như triển khai thực hiện những đóng góp cụ thể, đã thuận lợi hơn nhiều, tầng lớp trí thức tinh hoa của dân tộc chẳng lẽ chỉ có trăn trở và kiến nghị thôi sao? Đấy là nỗi băn khoăn của rất nhiều người Việt Nam tâm huyết, ở trong nước cũng như ở nước ngoài, đang dấn thân vì sự phát triển của Đất nước, vì tương lai của Dân tộc.

Cõi “không”


Chu Hảo  02/02/2010 09:17:53 AM 

Sau khi đã có những điều kiện tối thiểu cho cuộc sống thường nhật (ăn đủ no, mặc đủ ấm) thì hạnh phúc của mỗi người chủ yếu được quyết định bởi đời sống tinh thần và tâm linh. Minh triết Phương Đông chứa đựng đầy đủ các yếu tố cơ bản đảm bảo cho con người có khả năng tự giải thoát để tinh thần và tâm linh được khai minh trong tĩnh lặng. Những yếu tố cơ bản ấy có thể tóm tắt trong các triết lý 

1 -  Thường của Phật giáo, 
2 -  Ý của Khổng giáo và 
3 -  Vi của Lão giáo.
Phật giáo chủ trương thường (xem chẳng hạn Trịnh Xuân Thuận, Khoa học và Phật giáo: trước ngã tư đường, 2009). Bất kể những gì có vẻ hiện hữu, từ Vũ trụ bao la cho đến các phần tử nhỏ nhất của vật chất đều biến đổi không ngừng trong từng sát-na (đơn vị nhỏ nhất của thời gian) và trong suốt lịch sử tồn tại của nó từ khi xuất hiện, đến trưởng thành, suy yếu, rồi tiêu vong [Sinh - Trụ - Dị - Diệt]. Đó là Thường. Đời sống tinh thần - tâm lý của con người cũng luôn luôn thay đổi không ngừng theo lẽ  Thường ấy.  Thường mà vạn vật trong Vũ trụ luôn vận động tương hỗ; mỗi sự vật đều là một bộ phận của toàn thể, chỉ có thể được xác định và hiện hữu trong mối liên hệ cùng nhau, không có gì hiện hữu một cách tự thân; và “một có trong toàn thể, toàn thể có trong một. Đó là ý niệmDuyên Khởi, nguồn gốc của luậtNhân quả. Một khi mọi sự vật đều là Duyên Khởithì cũng sẽ không có hiện hữu nào độc lập hay thường hằng, đó chính là Tánh Không, ý niệm quan trọng thứ ba của Phật giáo, sau  Thường  Duyên Khởi. Không” ở đây không phải là “hư không” mà chỉ là không có hiện hữu tự thân. Bởi vậy Tánh Không không phải chỉ là bản tính của thế giới hiện tượng (“Sắc”), mà còn hàm chứa tiềm năng biểu hiện muôn hình vạn trạng của thế giới chân tâm (“Không”) Thế nên Bát nhã Tâm linh nói:Sắc chính là Không, Không chính là Sắc”.
Tích tâm để ngộ được (tức là ý thức được điều ta biết được từ nội tâm) những điều ấy, ta sẽ bình thản trước mọi sự đổi thay; ý thức được sự mong manh, bất trắc và phù du của kiếp người để duy trì lòng vị tha và trắc ẩn mà yêu thương con người, yêu thêm cuộc đời. Như vậy chẳng hạnh phúc lắm sao?
Ngày xưa, Thiền sư Lý Trường (1052-1096, được Lý Nhân Tông coi như quốc sư và đặt hiệu là Mãn Giác) đã thấm nhuần đạo lý  Thường để trải tấm lòng an nhiên, tự tại trong vần thơ thiền định:
Xuân khứ bách hoa lạc 
Xuân đảo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá 
Lão tùng đầu thượng lai 
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận 
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai 
(Xuân ruổi, trăm hoa rụng
Xuân tới, trăm hoa cười 
Trước mắt, việc đi mãi 
Trên đầu, già đến rồi 
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một nhành mai
(Ngô Tất Tố dịch)
Lão giáo chủ trương  Vi (xem chẳng hạn Nguyễn Hiến Lê, Đạo Đức Kinh, Nxb Văn hóa 1998).  ở đây không phải là không có gì.    sắc, thanh,  hình đối với cảm quan của ta, giống như Đạo của Lão Tử. Lão Tử coi Đạo là bản nguyên của vũ trụ, sinh ra vạn vật, nhưng thâm viễn và huyền diệu như vừa “Có” lại vừa "Không".  (Không) sinh ra Hữu (Có), rồi Hữu lại về , chúng không đối kháng, mà đối hợp với nhau. Và vì vậy Đạo với Tự nhiên là một.  Vi của Lão giáo không phải là không làm gì mà là không làm gì trái với Tự nhiên. Sống thuận với Tự nhiên, không bị gò ép bởi các phép tắc, ý niệm trái với các quy luật của Tự nhiên, thì cuộc sống sẽ yên bình hoan lạc.
Từ thế kỷ 18 đến nay, con người đã ngộ nhận sức mạnh vạn năng của khoa học và công nghệ, tin một cách khờ dại rằng có thể chinh phục được Tự nhiên trong khi không ngừng bóc lột và tàn phá thiên nhiên một cách tàn nhẫn. Và bây giờ đang phải trả giá: Ngôi nhà chung thiêng liêng của loài người đang có nguy cơ sụp đổ vì hiệu ứng nhà kính gây nên bởi khí thải công nghiệp và nạn phá rừng ngày càng trầm trọng hơn. Trái đất đang nóng dần lên, nước biển đang dâng cao và môi trường sinh thái bị hủy hoại. Đó là cái “quả” rất đắng từ cái “nhân” không tôn trọng Tự nhiên không thân thiện và hòa đồng với Thiên nhiên.
Giá Phương Tây, cái nôi của khúc học và công nghệ hiện đại, thấu hiểu được triết lý  Vi thì xã hội loài người đã không phải đối mặt với các nguy cơ kể trên.  Vi sẽ dẫn dắt các hành động can thiệp và chế ngự thiên nhiên một cách khôn ngoan hơn, thuận quy luật Tự nhiên hơn; và cuộc sống của con người sẽ an lành hơn.

Ở nước ta, ngay từ thời dựng nước, triết lý  Vi của Lão Tử đã được truyền bá. Pháp sư Đỗ Nhu Pháp (915 - 990) đã khuyên vua Lê Đại Hành rằng:
Quốc lộ như đằng lạc 
Nam thiên lý thái bình
 Vi cư điện các
Xứ xứ tức binh đao
(Ngôi nước như dây leo quấn quýt ở góc trời Nam (mở ra) cảnh thái bình
(Dùng đường lối)  Vi để trị nước 
Thì (yên dân), khắp mọi nơi không còn bạo lực)
Giá như từ độ ấy  Vi luôn ngự trị trong các triều đại thì dân tộc ta đã có thể có một tiến trình lịch sử khác rồi chăng?
Khổng giáo chủ trương  ý(xem chẳng hạn Francois Jullien, Minh triết Phương Đông và triết học Phương Tây, Nxb Đà Năng, 2003). Trong Luận ngữ có câu: Tử tuyệt tứ:  ý,  tất,  cố,  ngã” (Khổng Tử kiên định bốn điều:  ý,  Tất,  Cố, Ngã).
 Ý không có nghĩa là không có ý kiến gì mà có nghĩa là không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối hóa, khiến ta không nhìn thấy những điều hợp lý, khả thủ của những ý kiến khác, kể cả những ý kiến đối lập”. [Có cái nhìn đa chiều; nhiều mặt; không phiến diện; định kiến; đóng khung ý tưởng - GiangND]
Nếu đã  ý thì mặc nhiên sẽ dẫn đến  Tất (không định trước, ắt phải thế này, ắt phải thế kia),  Cố (không cố chấp một quan điểm nào, một lập trường nào)  Ngã (không có cái tôi đặc biệt, vị kỷ). Người quân tử phải có tư tưởng , có lập trường và chính kiến riêng của mình, nhưng luôn sẵn sàng đối thoại một cách bình đẳng, không thiên kiến với lập trường khác, tư tưởng khác và hình kiến khác; không là nô lệ mù quáng của bất kể chủ thuyết nào. Khổng Tử nói: “Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà cố ý làm, không có việc gì mà cố ý bỏ, hễ hạp nghĩa thì làm”. Hạp nghĩa ở đây là thích hợp với thời và thế. Đó là Đức thời trung của Khổng Tử. Đó cũng là triết lý Trung Dung của Khổng giáo: Đứng ở giữa(chứ không phải khư khư bám lấy trung điểm để cân bằng) và tự dành cho mình quyền xem xét, lựa chọn mọi khả năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hay phía thái cực kia”.
Quán tưởng được  Ý thì luôn luôn giữ được lòng mình thanh thản. Hãy lắng nghe Ngô Thì Nhậm (1746 - 1803), danh sĩ thời Hậu Lê - Tây Sơn trong bài phú Thiên quân thái nhiên (Lòng luôn thanh thản):
Linh đài cánh tĩnh, hư thất linh lung
 ý Tất, Cố, Ngã, tri cương nhu hiển thông
Dụng tắc hành, xã tắc tàng
Xuất xử, ngữ, mặc, giai thông hồ thời nghĩa
Ngôn chi tín, hành chi quả 
Tử, sinh, kinh, cụ bất nhập hồ hung trung
(Đức thiên trong lắng, nhà trắng sáng trưng
Không tư lợi, chấp nê, vị kỷ 
Biết cứng mềm, hiểu lẽ liên thông 
Đời dùng thì làm, đời bỏ thì về ở ẩn
Ra hay ẩn, nói hay im, đều bởi hiểu thông thời vận
Lời nói thì giữ tín, việc làm thì quyết xong

Sống với chết, lo với sợ, chút không vướng bận trong lòng.
(Ngô Linh Ngọc dịch)
Một chủ thuyết phát triển dựa trên nền tảng tư tưởng của Minh triết Phương Đông có thể (chỉ mới “có thể” thôi) là thích hợp cho thời đại mà triết học Phương Tây đang tỏ ra bế tắc. Nhưng  Ý,  Vi, Thường chắc chắn (rất chắc chắn) sẽ giúp cho con người lấy lại cảm giác bình yên và ứng xử thông minh trong cáiThế giới đầy bất trắc này, để vui sống hàng ngày và tận hưởng hạnh phúc kỳ diệu mà Tự nhiên đã ban tặng cho ta, một lần cho mãi mãi: được là một thực thể có trí tuệ trong Vũ trụ  Thường.
Hà nội, xuân Canh Dần 2010
Nguồn:  Tạp chí Truyền hình Hà Nội

Đi tìm hướng phát triển cho Việt Nam

Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào?
Việt Nam chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) làm mô hình phát triển. Trong hơn thập kỷ kể từ khi quyết định đường hướng phát triển này, nhiều điểm tích cực của kinh tế thị trường đã được phát huy đem lại mức tăng trưởng kinh tế khá cao để đưa một phần rất lớn người dân Việt Nam - thoát khỏi đói nghèo - nỗi ám ảnh gần như trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, những mặt trái hay khuyết tật của thi trường không được xử lý bằng những cách thức đúng đắn; những trục trặc khi Nhà nước can thiệp hay làm thay thị trường đang làm cho các vấn đề như: Bất bình đẳng, chênh lệch giàu nghèo, ô nhiễm, tham nhũng, lãng phí, băng hoại đạo đức và các mâu thuẫn xã hội ở Việt Nam đang trở nên nghiêm trọng hơn.
Một cách luận rõ ràng về kinh tế thị trường định hướng XHCN dựa trên nền tảng khoa học trong xu thế thời đại ngày nay làm cơ sở giải quyết những bức xúc trước mắt cũng như định hướng phát triển dài hạn cho Việt Nam là quan trọng.
thị trường, XHCN, kinh doanh, kinh tế, chính sách, Nhà nước, vai trò
Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Vinh Quang (2013): "Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào? Đâu phải nó là một mô hình kinh tế thị trường riêng biệt so với thế giới. Bởi "kinh tế thị trường" là cái tinh hoa của nhân loại rồi, còn "định hướng XHCN " là nói về vai trò của Nhà nước"

Vấn đề của Việt Nam
Do quan điểm phải gắn liền với những lý luận nguyên bản của Marx và Lenin đưa ra cách đây hơn một thế kỷ, nên những luận giải về định hướng XHCN ở Việt Nam trong hơn hai thập kỷ qua chủ yếu xoay quanh việc khẳng định chế độ công hữu là nền tảng và vai trò chủ đạo của Nhà nước trong các hoạt động kinh tế. Sở hữu hỗn hợp mà đặc biệt là tư hữu dường như chỉ được xem là giải pháp trước mắt, công hữu về tư liệu sản xuất vẫn đang là mục tiêu chính ngay thời điểm hiện nay. Với cách luận giải này, định hướng XHCN đang đối lập với kinh tế thị trường như nước với lửa.
Điều này làm cho đường hướng phát triển chính thống khác xa với thực tiễn hay sự vận động của xã hội. Nó không chỉ gây ra sự lúng túng trong việc thực thi các chính sách trong thực tế, lựa chọn các ưu tiên trước mắt mà để lại những hậu quả hết sức nghiêm trọng cho sự phát triển dài hạn của Việt Nam. Vô hình chung định hướng XHCN theo cách hiểu đặt nặng vấn đề sở hữu và vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước đang làm chệch hướng mục tiêu XHCN hiểu theo nghĩa vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Thực tiễn trong xã hội loài người
Nhìn vào sự phát triển của nhân loại đến ngày nay, kinh tế thị trường là một trong những chìa khóa quan nhất cho các nước có được sự thịnh vượng. Tuy nhiên, nếu đề cao quá mức vai trò của thị trường tự do thì sẽ gặp rắc rối. Những cuộc khủng khoảng kinh tế và tài chính nghiêm trọng xảy ra trong xã hội loại người đều do tính vị kỷ của con người được dung dưỡng quá mức.
Mô hình nhà nước phúc lợi (welfare state) hay thị trường xã hội với điển hình ở các nước Bắc Âu là một tham khảo thú vị. Dường như CNXH vị tha và CNTB vị kỷ đã có thể cân bằng lành mạnh. Điều đáng lưu ý là các nước này đã không gắn đường hướng phát triển của họ với một học thuyết cố định nào cả mà họ luôn dựa vào kho trí thức và các tiến bộ của nhân loại trong mỗi thời kỳ để định hình đường lối phát triển trong từng thời kỳ để đường lối phát triển trong từng thời kỳ.
Công thức thành công của họ đơn giản chỉ là tôn trọng các quy luật thị trường, sự tự do cá nhân và nhà nước phải vì lợi ích thực sự của người dân. Kinh tế thị trường, Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân đã được tập trung vun đắp để trở thành ba trụ cột chính cho sự phát triển. Mối quan hệ giữa bộ ba để giảm thiểu sự giẫm chân và mâu thuẫn lẫn nhau. Khu vực thị trường hay các doanh nghiệp có nhiệm vụ chính tạo ra của cải cho xã hội; Nhà nước đóng vai trò sửa chữa các khuyết tật của thị trường, tái phân phối một phần của cải để đảm bảo công bằng, cân bằng, hiệu quả và sự tiến triển cho toàn xã hội; xã hội công dân cởi mở tạo ra niềm tin lẫn nhau để hình thành vốn xã hội giúp các hoạt động kinh tế trở nên hiệu quả hơn, vai trò phân phối nguồn lực của Nhà nước hữu hiệu hơn trong trong xã hội nhân văn mà quyền con người được tôn trọng.
Kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, xã hội công dân là ba thực thể tồn tại một cách quan trong bất kỳ nước nào. Nhìn vào mức độ phát triển của từng thực thể và sự tương tác giữa chúng có thể thấy được sự phát triển của một quốc gia.
Sự cân bằng và hài hòa giữa ba thực thể này là vô cùng quan trọng. Bất kỳ một sự thiên lệch nào cũng có khả năng gây ra trục trặc. Khi nhà nước đòi làm tất cả sẽ dẫn đến kết cục như: kinh tế sụp đổ và các giá trị xã hội bị tàn phá do giả dối, đạo đức giả và bệnh thành tích tràn lan...
Nêu vai trò của thị trường đẩy lên quá cao sẽ dẫn đến một nền chính trị tiền bạc như Mỹ hiện nay. May mà xã hội công dân ở nước này đã bám rễ rất chắc và rất sâu rộng nên nó đã cáng đáng tốt rất nhiều vai trò trong xã hội khi mà các trính trị gia đang tranh cãi với nhau để dành quyền lực và ảnh hưởng của mình. Một môi trường mà ở đó xã hội công dân được đặt cao hơn hai trụ cột còn lại có lẽ là không tưởng vì vật chất có trước ý thức có sau và vật chất quyết định ý thức. Xã hội công dân gắn liền với ý thức và sự tự nguyện của các công dân nên khó có thể vượt lên so với hai thực thể còn lại.
Điều cần lưu ý là trong ba trụ cột nêu trên, chỉ có nhà nước được tổ chức chính thức, trong khi kinh tế thị trường và xã hội công dân là những tập thể phi tập trung và phân tán kháp nơi. Nhà nước làm sứ mệnh sửa chữa các thất bại của thị trường do tính vị kỷ của con người gây ra. Tuy nhiên, bản chất hành vi của những người ở khu vực công hay khu vực tư đều như nhau.
Trong lịch sử loài người, chưa có bất kỳ ví dụ thực tiễn nào cho thấy có một nhà nước mà ở đó có tất cả những người lãnh đạo và các công chức đều mẫn cán, một lòng một dạ vì lợi ích của người dân chứ không phải vì lợi ích, vị trí hay quyền lực của mình. Ngay cả khi đã vượt qua bao nhiêu khó khăn cản trở mà chủ yếu do tay chân, người dân của thiên đình, thần tiên hay nhà Phật gây ra, bước chân đến cửa Phật rồi mà thầy trò Đường Tăng vẫn phải lo lót để có được kinh kệ mang về. Ở xã hội trần tục đương nhiên là nghiêm trọng hơn nhiều.
Do vậy, cấu trúc nhà nước cần phải được thiết kế để tránh tập trung quyền lực quá nhiều vào một số ít cá nhân hay tổ chức. Hơn thế, mỗi vị trí luôn chịu sự giám sát hay điều tiết bởi những đối tượng khác. Chỉ có áp lực mất mát thật sự nếu không làm tốt mới có thể làm cho những người làm trong khu vực công làm tốt nhằm tạo ra một nhà nước hữu hiệu. Hơn thế, vai trò của xã hội công dân trong việc ngăn chặn suy đồi đạo đức, lạm dụng quyền lực cũng như sự cấu kết của các đối tượng trong hai trụ cột còn lại để tham nhũng và lũng đoạn là vô cùng quan trọng.
Ở những nơi mà xã hội công dân không được quan tâm thì xảy ra tình trạng cấu kết giữa doanh nghiệp và nhà nước hay chủ nghĩa tư bản thân hữu (crony capitalism) tước toạt phần lớn nguồn lực của xã hội cho một bộ phận rất nhỏ những người có quyền và có tiền, tạo ra bất công và khó phát triển.
Con đường phát triển của Việt Nam
Muốn phát triển, mỗi quốc gia đều phải dựa vào kho tri thức hay những tiến bộ của nhân loại. Tuy nhiên không thể áp dụng một cách máy móc hay chắp vá mà cần có tiến trình tìm hiểu và áp dụng cho phù hợp với điều kiện thực tế ở mỗi nơi. Không đâu xa, Nhật Bản, Hàn Quốc hay Singapore trở nên thịnh vượng chỉ đơn giản bằng cách "bắt chước" các tri thức và giá trị phương Tây sau đó điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện cụ thể. Họ đã chấp nhận thử và sai trên cơ sở tư duy phù hợp với thực tế khách quan để chọn được được đi đúng đắn.
Đối với Việt Nam, người viết bài này hoàn toàn đồng ý với tác giả Trần Việt Phương (2008) rằng "giải pháp cho Việt Nam phải là một giải pháp Việt Nam, con đường của Việt Nam, phù hợp với xu thế chung của loại người và chiều hướng tiến bộ của thời đại" và quan điểm của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Bùi Vinh Quang (2013): "Chúng ta tuyên bố xây dựng kinh tế thị trường định hướng XNCN. Không sai, nhưng bây giờ phải rạch ròi, thị trường là thế nào và định hướng XHNC là thế nào? Đâu phải nó là một mô hình kinh tế thị trường riêng biệt so với thế giới. Bởi "kinh tế thị trường" là cái tinh hoa của nhân loại rồi, còn "định hướng XHCN " là nói về vai trò của Nhà nước".
Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh của Việt Nam có lẽ không khác nhiều với mô hình thị trường xã hội, nếu chọn được đường đi và chính sách đúng đắn thì có lẽ phải rất lâu nữa Việt Nam mới có thể đạt được mức phát triển như các nước Bắc Âu hiện nay. Tuy nhiên nếu muốn đạt được thì không cách nào khác, Việt Nam cần phải xây dựng ngay các yếu tố nền tảng từ bây giờ. Các chức năng và vai trò của ba trụ cột cần được phân định rạch ròi để chúng phát triển lành mạnh và quan hệ hài hòa lẫn nhau. Giải quyết tốt mối quan hệ giữa kinh tế thị trường. Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân là một đòi hỏi đối với Việt Nam hiện nay (Đỗ Hoài Nam 2013).
Trong bối cảnh này, định hướng XHCN nên được hiểu là lấy công bằng làm đầu hay mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh trong mục tiêu tổng quát nêu trên. Kinh tế thị trường sẽ làm nhiệm vụ tạo ra của cải cho toàn xã hội. Lúc này chức năng, nhiệm vụ, mục tiêu và mối quan hệ của ba trụ cột cần được xác định rõ ràng. Vai trò của Nhà nước, suy cho cùng, cũng chỉ để đạt được mục tiêu đề ra bằng cách làm sao để cả thị trường và xã hội công dân làm đúng chức năng của chúng, muốn như vậy, Nhà nước chỉ nên làm đúng chức năng của mình chứ không nên làm thay hay giẫm chân hai trụ cột còn lại và càng không nên kìm hãm sự phát triển của chúng.
Do vậy, vai trò của Nhà nước, như hầu hết các nước đã thành công trên thế giới, đơn giản chỉ là tập trung sửa chữa các khuyết tật thị trường và cải thiện bình đẳng thay vì nhấn mạnh yếu tố sở hữu và xác định vai trò chủ đạo. Song song với việc hoàn thiện các thể chế nòng cốt của một nhà nước pháp quyền, nhà nước nên giảm thiểu tối đa việc tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh doanh, nhất là những hoạt động mà thị trường có thể làm tốt chức năng của nó.
Hơn thế việc tạo ra áp lực cạnh tranh, áp lực phải chịu áp lực cụ thể với các vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước là tối quan trọng để khu vực công có thể hiệu quả và hữu hiệu hơn. Chỉ có một tiến trình lựa chọn nhân sự dân chủ đúng nghĩa thông qua cạnh tranh để người dân phát huy quyền làm chủ thực sự thì mới có thể có được điều này.
Những nhà công nghiêp sở hữu những doanh nghiệp làm ra giá trị gia tăng thực sự cho xã hội như: Lego hay Maersk ở Đan Mạch, Samsung hay LG ở Hàn Quốc, Apple hay Google ở Mỹ, Toyota hay Honda ở Nhật, Electrolux hay Ikea ở Thụy Điển mới thực sự là nền tảng của một nền kinh tế vững mạnh.
Đây là điều mà Việt Nam đang thiếu. Những doanh nghiệp tạo ra giá trị đúng nghĩa. Hoàn thiện các thể chế để tạo ra sân chơi bình đẳng, khuyến kích sáng tạo, và giảm thiểu đầu cơ lũng đoạn là việc cần làm. Ở trụ cột này, việc cải tổ các doanh nghiệp chỉ tập trung vào một hay một vài nhiệm vụ cụ thể trong một thời hạn nhất định là hết sức cấp bách. Điều này sẽ tránh lãng phí nguồn lực và lợi dụng vai trò chủ đạo của loại hình doanh nghiệp này của một số người nhằm trục lợi. Đối với khu vực doanh nghiệp dân doanh, việc trân trọng những ngưới có khả năng làm giàu và khuyến khích người dân xóa bỏ tâm lý kỳ thị, ghen ghét người giàu, người giỏi là vô cùng quan trọng. Không một xã hội nào có thể trở nên thịnh vượng khi người giàu hay người giỏi không được tôn trọng.
Một xã hội công dân đúng nghĩa cần được quan tâm để nó có thể ngăn chặn sự xuống cấp đạo đức, mất lòng tin trong xã hội và tham nhũng tràn lan như hiện nay. Chỉ có xã hội công dân cởi mở mới có thể tạo ra niềm tin giữa con người với con người, dần hình thành vốn xã hội có lợi cho sự phát triển. Trong một xã hội mà các quan hệ cơ bản chỉ do vật chất chi phối sẽ rất nguy hiểm vì ở đó chỉ có phần "con" thấp hèn được dung dưỡng trong khi phần "người" cao quý không được đề cao. Sẽ rất là đáng sợ khi trong một xã hội mà phần con lấn át phần người. Nếu không có những quyết sách hợp lý ngay từ bây giờ tương lai của Việt Nam sẽ rất u ám.
Tóm lại, trong thời đại ngày nay, cần bổ xung những lý luận mới và học hỏi vận dụng những tiến bộ của xã hội loại người nhằm lựa chọn một con đường hay chủ thuyết phát triển hợp lý để sớm đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây mới chính là mục tiêu cuối cùng và quan trọng nhất của Việt Nam.
Huỳnh Thế Du
Theo Thời báo Kinh tế Sài Gòn

Nước như nước mắt

Đừng sợ hãi, dù vì nó mà người ta sống, chết… (*)

1

Chồng Sáo chết vì mấy lá ngò gai.

2

Nhà chức trách nói rằng họ đang tìm sự thật nhưng có thể chồng Sáo đã lẻn lên bè rẫy Đại Thanh trộm tài sản của họ, lúc người ta bắt gặp đã xảy ra xô xát nhỏ, anh lao xuống sông định trốn, chết nước là chuyện rủi ro không ai ngờ… “Những người đầu tiên trông thấy xác chồng cô đều chứng kiến trên tay anh ta còn cầm một sợi dây chuyền vàng đã đứt”, nhà chức trách bảo vậy. Sáo nói không phải đâu, anh Thi chồng tôi chỉ muốn lén hái vài lá ngò. Nhà chức trách hơi xẵng giọng, chúng tôi dựa trên nhiều bằng chứng quan trọng. Sáo cãi không phải đâu, chồng tôi cần có chút ngò gai thôi. Họ kiên nhẫn kêu vài nhân chứng tới nói mấy câu chuyện ngập ngừng.

Sáo cãi phăng đi. Ngay khi Sáo ôm xiết chồng đang nằm thõng thượt trên cái bàn dài đặt giữa văn phòng nhà chức trách, ngay khi nó vùi mặt mình vào cơ thể lạnh lẽo chi chít những chỗ tím bầm, ràn rụa tìm kiếm hơi thở của anh núp trốn đâu đó, trong rún, trong mắt hay ở bên sườn. Khi lướt qua đôi môi dập nát nó nghe phảng phất mùi ngò gai. Trời đất ơi, chồng nó đã nhấm nháp thưởng thức mùi vị chúng ngay khi vừa hái được. Anh vẫn chưa nuốt trôi khỏi cổ, ý nghĩ đó làm nó nghẹt thở. Người ta đang nhâm nhi ngò gai thì không ngó ngàng tới vàng bạc đâu, Sáo nói và xốc ôm chồng tha về ghe.

Dưới sạp ghe hai con cá Bạc Đầu đã chết. Cặp cá này sáu tiếng đồng hồ trước vợ chồng Sáo giăng lưới bắt được. Cá bị nước đuổi ốm tong teo nhưng chồng Sáo sướng quên trời đất, và như con nít, anh đứng múa may quay cuồng ở đầu ghe, kêu hết sẩy hết sẩy, nói phước đức ông bà để lại. Chưa bao giờ Sáo thấy anh hạnh phúc, hân hoan đến vậy, đến nỗi nó đã chạnh lòng ngay lúc đó, anh đâu có từng tỏ ra quý mình như quý cặp cá này.

Cá Bạc Đầu luôn đi thành đôi, là loại cá rất hiếm hoi. Sục sạo như chồng Sáo cũng chỉ một lần thấy chúng. Má chồng Sáo hồi còn sống thường thắt thẻo nói vợ chồng nào hiếm muộn con cái nuốt mật cặp cá Bạc Đầu thể nào cũng cấn thai. Bà hay ngồi ở cửa trước hóng coi trẻ con bên xóm đang chạy giỡn, tiếng thở dài của bà lửng thửng bay về phía Sáo nhoi nhói. Chồng Sáo cà rỡn, “bắt được cá Bạc Đầu rồi vợ con sanh một lần bảy đứa, cho má giữ mệt nghỉ…”. Má chồng không chờ được, lúc bà chết bên vách vẫn còn giắt mớ vỏ tỏi - thứ đàn bà đẻ dùng để xông da thịt cho thơm. Chồng Sáo vẫn phấn khích quăng chài xuống sông Sắc nuôi hy vọng, không hoàn toàn vì khao khát trẻ con. Chồng Sáo đã được ăn cá một lần hồi mười lăm tuổi mà mỗi khi anh nhắc lại nồi canh cá nấu mẳn, Sáo lại thấy nước miếng rỉ ra rưng rưng bên mép anh. Người Châu Thổ hay nói, bắt tao tả đau bụng đẻ ra làm sao chẳng khác nào kêu tả mùi vị con cá Bạc Đầu, tức là chẳng thể chia sẻ cảm giác với người khác nếu họ không tự mình trải qua. Sách “Bi ký” chép lại, năm 813 đã có một làng chài lưới bị tàn sát vì giữ lại cá Bạc Đầu mà không cống nộp cho vua. Một trăm ba mươi bốn người trong làng đã chết. Ba chồng Sáo quý cuốn sách đó như một gia tài nhưng nhà nó đã làm mất vào một bữa nước đột ngột dâng.

Giờ con cá của những đồn đãi, con cá huyền thoại, con cá vì nó mà người ta sống, chết đang nằm trong ghe nhà Sáo, đuôi màu xám đậm rồi phai dần cho đến phần đầu thì trắng muốt tựa bông lau chín. Cái chết cận kề không làm cho chúng thôi quấn quýt. Chúng chạm râu vào nhau khẽ khàng, như âu yếm như đờ đẫn, như dịu dàng lại như kiệt sức. Phải, nước đuổi đã quá hai tháng rồi, đến con người cũng phờ phạc bạc đi.

3

Mùa nước đuổi bắt đầu từ giữa tháng Giêng. Ngó nước bắt đầu linh đinh bờ bãi, người ở xóm Rẫy thở dài ứ hự, chắc năm sau ăn Tết trên ghe.

Cứ mỗi năm nước đuổi lại tới sớm hơn, mùa mỗi năm mỗi dài hơn. Tết chưa tàn vợ chồng Sáo đã lụi hụi dọn đồ đạc lên ghe, bông vạn thọ trồng trong cái khạp lủng để trước hàng ba còn chưa bung nở hết. Chồng Sáo cứ tiếc là ghe chật quá, không rinh cái khạp đó đem theo được.

Anh còn muốn bứng cả cây cỏ quanh nhà theo, nếu có thể. Nên trên ghe lủ khủ những bụi hành hẹ, sả, vài cây ớt, ít hẹ, ngò om… Mấy thứ cỏn con này hay làm chồng Sáo bận lòng, ăn cá chốt nấu cơm mẻ mà thiếu sả ớt, cá trê nướng mà không gừng… là anh băn khoăn lắm. Anh nói thà không ăn, chứ ăn vầy không đúng điệu.

Chồng Sáo ưa nói hai từ đúng điệu. Coi kìa, đêm nay trời trong nhưng trăng tròn quá nhìn không đúng điệu, phải khuyết chút ngó hay hơn. Nắng vầy mà có bóng cây để treo võng nằm chơi là đúng điệu. Con lá lóc này phải có rơm khô chất lên đốt nướng trui mới đúng điệu. Sống giữa trời nước bao la vầy mà không có nước để tắm cho đúng điệu, nghĩ mà tức.

Sáo nhớ chồng nó nói câu đó khi đang ngồi ểnh ra, se miết mấy ngón tay da cổ làm đất rụng xuống lả tả. Gọi là tắm khô, kỳ cọ bằng mồ hôi xong sẽ tắm ướt bằng hai gàu nước. Nhưng có bữa chồng Sáo tắm cả xô, tắm đúng điệu. Chữ đúng điệu nhiều lúc làm Sáo sợ. Nhất là khi nghe bảo “em nằm day lại tui gãi cho đúng điệu cái coi”. Đêm nào trước lúc ăn nằm với nhau bao giờ chồng cũng gãi lưng Sáo, trong một trình tự lớp lang đúng điệu, bắt đầu từ lúc những ngón chân cọ vào bắp chân Sáo, sau đó này sau đó kia, anh nhẩn nha đến nỗi nó thiu thiu ngủ luôn bỗng nghe cái gì đó xộc tới chới với. Nó không thích vậy nhưng không dám nói, biết đâu vì cái khoảnh khắc chới với đó mà trẻ con không chịu ra đời.

Sáo còn hồ nghi vì hai chữ đúng điệu mà nhà nó nghèo. Gieo mấy giồng cải, chồng Sáo nói lá cải chưa mướt mà nhổ bán là không đúng điệu, nhưng chờ tới lứa cào cào ở đâu bay lại ăn đám rau rách nát. Có năm trồng dưa hấu, thấy dưa lớn trái lại đang được giá Sáo đòi bán cho thương lái. Chồng bảo chờ cho dưa chín thêm ít nữa, cho da trái dưa căng bóng mới đúng điệu. Ai ngờ trời trở mưa một trận, không kịp cắt dây dưa nổ lụp bụp như pháo, nứt vỏ hết. Trắng tay.

Mùa đó là mùa dưa cuối cùng trên đất nhà Sáo. Năm sau nước đuổi tới nơi, cứ nghĩ nước tràn quanh quẩn những vùng gần biển thôi, nhưng nước theo sông ngày càng vào sâu hơn, tràn bờ bãi, ngấm vào chân ruộng. Người ta kéo nhau đi đào đất đắp bờ, nhưng đắp tới đâu nước theo tới đó, cơi nhà tới đâu nước ngập tới đó, không lẽ ở trên mái nhà, thôi kéo nhau lên ghe ở cho rồi. Cây trái tàn rụi, chỉ còn cỏ Đuôi Mèo là sống được, đem bán rẻ mạt cho những người chăn nuôi bò ở bên kia biên giới, chẳng được bao nhiêu tiền.

Chồng Sáo không lấy chuyện đó làm phiền, cả khi ôm cái lư hương cha mẹ rút lên ghe chờ qua mùa nước đuổi, anh vẫn làm mặt tỉnh queo. Cả xứ này bỏ đất mà đi chớ đâu phải chỉ nhà mình, chồng Sáo nói vậy. Chỉ một lần duy nhất chợt thèm ớt giữa bữa cơm, mà cây ớt đem theo đã chết queo, anh mới dựng đũa kêu trời.

Trời im ắng ở trên cao, trong ngằn ngặt, trong như nước mắt. Nắng quay quắt như vắt như vo con người thành những hòn đá khô khốc có thể lăn cọc cạch. Vợ chồng Sáo neo ghe ngay trên đất vườn mình, cạnh mái nhà mình, lây lất sống nhờ chài lưới những con cá nước đục còn sót lại ốm ròm trên mình đầy ghẻ lở… sau đó thì tới đám cá nước trong len lỏi vào sâu trong đất liền, hai đứa kiếm được chút đỉnh tiền gạo và không đến nỗi cực ăn. Nhưng có bữa chỉ bắt được cá Sầu Ngư, đành ăn cơm với muối hột.

Sầu Ngư bình thường vẩy màu xám bạc chỉ nhẩn nha ăn bèo rong trôi dạt, đến nước đuổi thân cá trở nên đỏ thẫm. Chúng có thể sống tỉnh queo nhờ rỉa xác súc vật chết trôi, trong đó có cả xác người. Chồng Sáo vừa ghét vừa ghê sợ chúng, anh xỉa xói, “Cái thứ ham sống tới nỗi bất chấp tội lỗi…”. Sáo mắc cười quá, mắng cá mà như mắng người.

Sáo đâu có ngờ có ngày mình phải bảo vệ chồng khỏi miệng cá Sầu Ngư.

4

Chồng Sáo ốm teo, nằm gọn đeo trong cái hòm được ghép tạm bằng mấy tấm ván ngựa xóm giềng giúp mò lấy từ dưới nhà lên. Lúc lau rửa cho chồng, men tay theo từng tấc thịt da dường như đang tan chảy Sáo thấy buồn quá. Không thể chôn xuống đất, người ta bày cách dìm hòm xuống nước, lấy dây buộc níu vô cột nhà, chờ nước rút mới đem âm thổ. Vị mặn của nước ngấm vào sẽ làm chồng Sáo lâu tàn rữa, họ nói vậy.

Xóm giềng lặng lẽ tiễn chồng Sáo. Cũng mệt mỏi và đuối sức như những con cá nước đục khắc khoải sống với cái vị mặn mòi xa xót của biển, họ chới với khi bị bứng lìa khỏi đất, khỏi cái màu xanh rười rượi của cỏ cây. Cả cái chết cũng không phải xa lạ, nó diễn ra mỗi ngày, người ta chết đuối, chết vì khát, vì thèm tắm, vì nhớ vị của trái ổi chát, vì giành nhau cành củi trôi sông…

Riêng chồng Sáo thì chết vì thèm rau. Hàng xóm bảo, không phải, nó chết vì nghèo đó chớ. Vì nghèo nên không đi ra khỏi cái xứ trần ai này được. Vì nghèo nên phải bỏ mạng vì gặp phải bọn cậy giàu coi sinh mệnh người như cỏ rác. Bứt mấy cọng ngò thôi mà, có phải thù oán gì cho lắm đâu mà nhẫn tâm quá thể ? Sáo cũng muốn đi hỏi người của bè rau Đại Thanh câu đó. Sao vậy, tại sao, vì sao ?

- Thời thế loạn rồi, đất không còn thì có thứ gì còn.

Ông bán xôi dạo thở hắt ứ hự. Ông nói bữa trước đi ngang bè rau nghe có tiếng kêu cứu, nghe trên đó rầy sao mầy không chết đi, sống làm chi mà làm khổ người ta. Không biết “người ta” là ai, mắc mớ gì tới cái bọn sống sung sướng trên cái bè rau đó.

Sáo nghe xong tưởng trong lồng ngực có thứ gì vừa đứt phựt, nó hức lên, anh ơi sao anh tới chỗ đó mà chết. Ủa, vậy chồng mình chết chỗ khác thì mình đỡ đau lòng hơn sao ? Sáo giật mình nghĩ vậy khi vừa khóc dứt. Trong nỗi ân hận Sáo ngồi dựa vách ghe, mong xóm giềng cứ ngồi chơi, nếu không muốn nhắc tới chồng nó thì cứ nói chuyện bâng quơ, chuyện những vùng đất cao cẳng xa xôi nước biển không bao giờ đuổi tới, chuyện ở đâu đó con chó đẻ ra con dê, cây dừa có chín đọt… Hoặc họ không nói gì cũng được, ca hát cũng được… Nhưng họ phải về, phải sống. Cuối buổi sáng là nhà chức trách xả nước ngọt ở các máy nước công cộng, không kịp chèo ghe đi lấy sẽ không có nước nấu cơm, tắm giặt…

Sáo chỉ còn một mình.

Một mình.

Sáo lết đi bắc xoong cơm lên bếp lửa. Cảm thấy tay áo giở lên còn không nổi. Bụng không đói miệng thì đắng nhưng Sáo phải ăn, để chờ người ta trả lời tại sao chồng nó chết. Đợi chán Sáo lại chèo ghe tới chỗ nhà chức trách thăm chừng, khi thì thấy vài anh say sưa chơi cờ, khi thì thấy một anh ngủ gục bên bàn làm việc kệ ruồi o e trên mép. Hỏi thì họ chưng hửng nói cô còn đợi sự thật nào ? Như thể có rất nhiều sự thật nằm nhấp nhổm trong ngăn kéo, và họ đang chọn một cái sự thật hợp với tướng tá xơ rơ, túi áo lép kẹp của Sáo.

Hơi thất vọng, Sáo chèo trong chảo nắng mặn trở về, bỗng nín thở nhìn thấy cái lưng dài nhằng của chồng mình trên mái nhà. Em chồng Sáo mang nó về, cả đôi chân mày rậm. Nó thảng thốt hỏi chị Hai làm gì vậy. Sáo nói chị đâu có làm gì. Trời ơi chị xởn tóc chị xơ cờ kìa.

Em chồng nhìn Sáo như thể kêu Sáo nín đi, như thể Sáo xởn tóc là một cách khóc. Sáo chỉ gượng cười rồi luýnh quýnh đi nấu cơm cho em chồng ăn, bận bịu làm sự sống quay trở lại trong nó. Sáo đã quen sống và làm lụng vì ai đó. Như bà nội Sáo vì thương chồng mà bơi xuồng đi cưới hai bà vợ bé cho chồng, như má Sáo vì chuộc chồng khỏi núi nợ ở trường gà mà phải bán hết đất lên ghe sống lênh đênh. Năm mười chín tuổi, nghe má ao ước “lúc chết được nằm trên đất của mình”, Sáo lấy chồng. Lấy người má nó chọn, lý do “thằng đó có tới chục ngoài công đất”. Sáo nhìn thấy chồng lần đầu khi anh đang ôm con gà tre đi trên đường, miệng ngậm vung vinh cọng cỏ mần trầu, nó tự hỏi đây sẽ là chồng mình sao ? Lễ ăn trầu uống rượu rồi, chồng vỗ mông Sáo, nó lại hỏi đây là chồng mình sao ? Hôm cưới nghe chồng phả hơi rượu nóng rực vô vành tai, vẫn hỏi chồng mình đó sao ? Nhưng lúc Sáo cài khuy áo lại, ngó cái người đang lật ra ngủ queo đó, nó nghĩ đây là chồng mình. Nghẹn căng ứ mũi.

Má Sáo vui lắm, gói gém mấy lễ, bà mua hai công đất dành để chôn. Nhờ con gái hiếu thảo mà thím đổi đời rồi, má giả đò vu vơ khoe với một khách thương hồ quen, không lâu sau, anh ta cũng lấy con gái nhà giàu dưới chợ.

Nước đuổi vào sâu Châu Thổ, đất – thứ mà vì nó mà Sáo lấy chồng – trở nên vô nghĩa, như cái tên xóm Rẫy mà còn cái rẫy nào đâu.

Giờ đến cả chồng, Sáo cũng làm mất.

Em chồng rút trong túi xách ra bộ đồ tây mới cáu đặt cạnh đôi dép da mà nó đã mua cho chồng Sáo từ năm trước. Món quà còn nguyên niêm mạc, chồng Sáo chưa đi lần nào, anh nói chờ kiếm có quần áo đẹp mặc cho đúng điệu. Có lần đi chợ gặp em chồng, Sáo kể, nó buột miệng chửi thề, “Má, thằng cha cầu kỳ quá, con nhà lính tính nhà quan…”. Giờ thì em chồng im lìm ngồi vuốt mớ đồ của anh nó. Bao giờ chồng nhập thổ, Sáo sẽ chôn chúng theo.

Ngó cái cảnh đợi công lý của Sáo, thằng em chồng cười khào, con dao bấm trên tay cứ lè lưỡi ra tanh tách, sáng quắc. Nó nói “công lý ở trong tay mình mà, chị Hai…”

Em chồng đi giang hồ từ nhỏ, lưng em giờ đã hai mươi hai cái thẹo, đó là những lần em thực thi công lý hay bị công lý của nhóm giang hồ khác thực thi lên. Không thẹo người ta không biết mình dân giang hồ, em khoe vậy, giống như ở chợ hay gắn chữ văn hóa cho người ta biết là có văn hóa vậy. Em chồng cũng thường khoe công lý của em nhanh hơn, luật của em công bằng, sòng phẳng hơn. Không tin không được, nhiều lần nó tìm lại những món đồ nhà Sáo bị trộm lấy đi, dù chúng đã bị thay hình đổi dạng, bị tháo rã ra bán đầu một nơi mình một nẻo. Nó còn dẫn thằng ăn trộm về biểu, "xin lỗi anh chị Hai tao, mầy !", và thằng kia cun cút cúi đầu.

Nhưng đó chỉ là thằng trộm nhỏ thó hom hem, giờ em chồng Sáo sẽ đối đầu với một bè rau đông người lắm của. Em chồng đi rồi Sáo nóng ruột bồn chồn quá, như thể chỉ cần vo gạo rồi ôm cái nồi vào bụng, gạo sẽ sôi thành cơm. Mấy bữa sau nghe ở mấy máy nước công cộng người ta hể hả bàn tán, nói xe hơi của nhà Đại Thanh dưới chợ bị đập phá, tụi giang hồ còn đánh thuốc chết mấy con chó, tưới xăng định đốt biệt thự may mà nhà chức trách tiếp cứu kịp.

Bữa sau nữa, người ta rủ Sáo đi coi một bảo vệ của bè rau bị dìm chết. Sáo không đi, nó không chắc mình sẽ hả hê khi nhìn thi thể đó. Sáo sợ cái bàn lạnh ngắt giữa căn phòng lạnh ngắt, nơi hơi thở một con người bỗng dưng biến mất. Ở đó, biết đâu cũng có con đàn bà gột rửa da thịt chồng bằng nước mắt, mong gọi những hơi thở trở về.

Nhưng buổi tối hôm đó Sáo đã phải xuôi ghe tới văn phòng của nhà chức trách, vì em chồng Sáo. May phước, em chồng không nằm trên bàn mà bị trói gô, khiến cái lưng dài thượt gần như cuốn tròn lại. Sáo thở phào nhẹ nhỏm dù hoàn cảnh của thằng em hiện giờ rất cay đắng. Vậy mấy bữa qua Sáo đã bồn chồn lo lắng cho ai ? Nó tự hỏi, người mướt mồ hôi lạnh. Ngó vẻ mặt đờ đẫn của Sáo, em chồng cố an ủi mà giọng nói cứ nghiến sít sìn sịt :

- Chị buồn con c. gì, tụi nó bắt tui như bắt cóc bỏ dĩa. Chỉ uổng là tui chưa kịp bẻ cổ thằng Giang.

Câu nói làm Sáo rúm ró. Sáo biết người đàn ông tên Giang đó, lầm lì ít nói, da ngăm đen mắt sâu, hai bàn tay đều chai. Và tóc gội sương gió cứng đến nỗi nếu ai đó để anh ta gối đầu lên đùi, họ sẽ nghe vừa nhột ran vừa đau nhoi nhói. Người đó đã từng hiền lắm, ngập ngừng mãi mới dám nắm bàn tay con gái, nhưng theo lời em chồng Sáo thì giờ anh ta đã đổi thay quay quắt như con cá Sầu Ngư. Sáo muốn đi tìm coi anh ta nhuốm đỏ tới mức nào.

Sáo sẽ đi. Nó quyết định vậy khi nhìn theo em chồng bị người ta đưa đi mất. Nhanh đến nỗi Sáo nhận ra công lý thật ra đâu có già nua hay chậm chạp hay đui mù. Sáo thấy mình vừa mất hết, cả người thân cuối cùng và chút niềm tin cuối cùng. Nhưng cái cảm giác đó thật sự rõ ràng khi nước bắt đầu rút, Sáo đào xuống năm lớp dá, rồi kéo cái thứ đất ngâm lâu bủng beo trong nước đó, đắp lên cho chồng.

Chờ những mầm cỏ Đuôi Mèo lún phún lên xanh, Sáo chèo ghe đến bè rau Đại Thanh. Nhắm mắt thì nó cũng chèo được tới cái chuỗi xanh ngằn ngặt ở ngã ba sông Sắc, chỗ sông Mê cắt qua.

5

Bè đang tuyển người làm. Những nhân công cũ sợ giang hồ đòi công lý nên xin nghỉ quá nửa. Sáo bị xua đuổi ngay khi trờ tới, họ nhận ra vợ của thằng oan gia bứt ngò. Nhưng vì người ta biết Sáo nên nó vẫn cắp cái nón trong nách nấn ná chờ. Hồi lâu có người kêu, cô kia tên gì để tôi ghi hồ sơ ? Ông ta hỏi mà vẻ mặt thảng thốt như không hiểu cái câu vừa rồi sao lại tuôn ra khỏi miệng, như thể đang nghĩ mướn con này chẳng khác nào rước giặc vô nhà, sao ông chủ mình ngu vậy ?

Cũng ngơ ngác, Sáo nói tên mình. Ngay lập tức trên danh nghĩa nó trở thành người của bè rau. Dù Sáo chỉ muốn tới hỏi người đàn ông tên Giang đó có thật đã muốn chồng nó chết không. Sáo nghĩ người đó sẽ im lặng hoặc nói không, vậy đỡ quá. Chối bỏ nghĩa là còn biết sợ hãi. Nhưng con rể của nhà giàu Đại Thanh, người quản lý bè rau mênh mông này, anh ta nói có. Anh ta nhìn thẳng vào Sáo, nói có, nó – đáng – chết…". Anh ta vẫn rám nắng chắc chắn vạm vỡ như năm bảy năm trước, mắt vẫn rười rượi sâu. Mặt anh ta phẳng lặng, giọng cũng đều đặn thản nhiên, mà buốt nhức :

- Em sẽ làm gì tôi ?

Sáo chết trân. Nó không biết. Nó đinh ninh là anh ta sẽ chối bay chối biến và nó cắp nón ra về, an ủi mình đã tìm được sự thật giống như sự thật. Nhưng anh ta thừa nhận, trâng tráo như Sáo không thể làm gì được. Sáo sẽ chạy tới nhờ nhà chức trách đang ngủ gục hay sẽ đòi công lý bằng dao bấm giống như em chồng?

Ngơ ngác, Sáo bỏ đi. Vài ba bận chèo ghe trở lại, cũng chừng ấy lần lủi thủi quay về, Sáo nghi chắc tại phải chèo xa mệt mỏi nên sự căm thù hao hụt. Nó quyết định ở lại làm công cho bè rau. Ở đây nó sẽ tích tụ được những cơn giận dữ, đến khi chúng căng chật, nổ tung thì đường đến căn phòng của tên gian ác cũng gần.

Và nơi này làm cho Sáo không bao giờ nguôi oán giận. Sáo gánh nước tưới những giồng ngò gai và tưởng tượng cái tối chồng mình khoái chí nhấm nháp chúng, chắc anh không kịp rửa, chắc trong cái vị cay nồng có lẫn oi oi mùi rơm mục. Sáo ngồi bó rau bồ ngót ở sàn nước và nghe gan bàn chân tê tái bởi ý nghĩ chồng mình đã bị người ta đánh đập, lăn lộn đau đớn ở đây (dựa theo sự thật của ông bán củi). Trầm mình dưới khúc sông bên hông bè để ủ rơm tươi, Sáo đánh dấu lên dòng nước chỗ người ta đã dìm chồng nó xuống (vịn vào sự thật của thím bán bánh dừa).

Có lần lửa bùng lên tới mặt, Sáo đã chạy tới căn phòng đó, khi xô cửa bỗng bàn tay Sáo chui tọt vào vạt áo. Một đứa trẻ đang ngồi trong lòng người đàn ông, nó đang vùng vằng cằn nhằn cha không biết chải tóc làm đầu nó đau lắm luôn. Anh ta nhác thấy Sáo liền nói, “cô để lần sau…”. Ừ, Sáo không muốn khi xiên con dao trong túi nó qua ngực người đàn ông đó lại có đàn bà và trẻ con trông thấy. Đi men theo những giồng gừng về dãy nhà ngang nơi dành cho những người làm công ngủ, tiếng con nít thỏ thẻ vướng chân làm Sáo trợt chân té sấp. Nó gượng bò dậy khỏi những vũng nước săm sắp, nghĩ phải chi mà vợ chồng nó cũng có đứa con như vậy, chắc bọn nó sẽ có nhiều chuyện để nói với nhau, sẽ không phải tìm kiếm mỗi đêm dù nó mệt đến rã rời, chỉ muốn ngủ thôi. Và đứa con sẽ làm Sáo thôi nhớ tháng ngày trôi nổi.

Trưa thứ bảy ca nô đưa trẻ con ra bè, chiều chủ nhật trẻ con vào trong chợ. Vợ của người đàn ông, tức bà chủ của Sáo thì tới bè mỗi buổi chiều, lúc các máy nước công cộng đã khóa chặt và những người không lấy nước kịp sẽ ghé qua chỗ chị ta mua nước với giá cao. Cuối chiều cho tới nửa đêm, thương lái nườm nượp tới để giành giật nhau từng bó rau, chị ta đứng bán rồi sáng hôm sau cũng biến mất sau con đê kiên cố sừng sững như tường thành bọc quanh thành phố. Nó cao tới mức những người lam lũ như Sáo cảm giác bị bỏ rơi, bị rời ra, thấy mình nhỏ nhoi như kiến, cỏ. Nó nhắc nhớ nắm xương của ba Sáo đã lạc mất bên dưới tầng tầng lớp lớp nhà cao. Nó nhắc nhớ ba mươi sáu bậc thang mà Sáo đã dò dẫm từ mặt đê xuống ghe cùng với xác chồng.

Nên nhìn thấy bà chủ là Sáo nghe giận. Chị ta cứ lai vảng hoài nên mỗi tuần Sáo chỉ còn lại chừng bốn mươi tiếng đồng hồ để tiếp cận kẻ thù, mà không phải lúc nào kẻ thù cũng ở một mình, bởi người làm công cứ dập dìu qua lại. Trắc trở nhiều khi đến từ trong Sáo, bởi đôi lúc đứng nhìn một vạt cải con xanh non, đôi lúc đi ngang giồng quế đang trổ bông, hay bước chân giẫm lên một lá gừng già… mùi thơm nồng nàn làm người Sáo lỏng lơi ra, nhẹ bỗng. Vậy đâu có được. Nó ở đây để đòi công lý cho chồng, sao lại quên chỉ vì mùi hương của những thứ cỏ cây này.

Nhưng trước những đọt ổi non, những giồng rau húng lủi, đống rơm mới…Sáo vẫn không cầm lòng nổi. Sáo đã nhớ chúng biết bao nhiêu, từ khi nước đuổi lấp ló phía chân trời.

6

Sáo sống gần như đơn độc trên bè. Thui thủi. Bạn làm công dè dặt, đám bảo vệ canh chừng, và Sáo biết mình đi đâu làm gì cũng có người ngó theo, khi da diết khi mãnh liệt, khi hờn mát khi chua chát. Có cảm giác người ta rọng nó ở lại bè rau chỉ để Sáo quẩn quanh trong tầm mắt, nó không phải thả ghe chơi vơi chài lưới chật vật kiếm sống trong mùa nước đuổi.

Sáo hơi tuyệt vọng, nó vẫn chưa trả được thù chồng. Người xóm Rẫy ghé qua bè mua rau đổi nước cắt Sáo bằng ánh mắt căm ghét đến rát mặt, ý nói "thứ người gì tệ bạc, đi làm tôi mọi cho giặc...". Sáo càng nôn nóng, sợ năm dài tháng rộng mớ màu xanh ngằn ngặt trên bè sẽ loang hết mảng tím bầm trong lòng nó. Vậy đâu có được. Nhưng kết thúc bằng cách xiên một mũi dao thì quá dễ cho anh ta. Cái cảm giác sống mà mất hết, nhìn thấy mọi thứ chung quanh tàn rữa mới ghê. Nhưng những thứ mà kẻ thù yêu quý Sáo đều không thể chạm vào. Trẻ con, đàn bà, và cả những giồng rau trái thênh thang trên bè - thứ mà mùa nước đuổi trắng xóa những chân trời, chúng là vàng. Có thể anh ta còn thứ quý giá hơn, Sáo đang tìm kiếm. Nó tới gần anh ta hơn, tới mức có thể nghe giữa những cơn nín thở là tiếng nuốt nước bọt lục cục trong cổ họng. Có lần vô tình cùng khiêng chung một cái lu, Sáo bỗng thấy cảnh này sao giống đôi vợ chồng đang chuẩn bị đón mưa đầu mùa, ý nghĩ làm nó giật mình buông tay làm lu rớt xuống mấy ngón chân anh ta tươm máu. Sáo đau, đến nỗi nó tin rằng nếu lưỡi dao thấu qua ngực anh ta chắc nó là người gục xuống.

Phát hiện đó làm Sáo về luẩn quẩn gần mộ chồng ân hận cả ngày. Oán đong đầy lại. Sáo bắt đầu ráo riết tìm kiếm, bằng cách nhìn rười rượi vào mắt anh ta mỗi khi chạm nhau giữa mấy luống cà chua, dưa chuột. Bằng cách vu vơ hát lên một câu hát cũ, hoặc ra ngồi nhìn trời nước chỗ cây quao. Trời ơi, khi mà mỗi tấc đất trên bè này đều là một tấc vàng, thì người ta bứng trồng lên đó một cây quao, chẳng làm gì cả, trái không ăn được lá lại hôi rình.

Anh ta không thèm giải thích. Con người kỳ cục đó hùng hục làm giàu, nhưng có khi Sáo thấy anh ta đứng ngó bạn hàng vây quanh vợ mình, ngó những xấp tiền xập xòe bằng cái nhìn trống rỗng, tựa như chúng vô nghĩa. Dù nhiều tiền thì gì cũng có, có cả nhà chức trách hồ hởi ghé chơi. Bạn làm công lâu năm vui miệng kể hồi lập bè anh ta cũng chỉ nói với vợ một câu, “tôi ra sông làm rẫy, em ưng thì theo…” Bè dứt khoát phải đặt ở ngã ba sông Sắc, người xóm Rẫy đi chợ đằng nào cũng phải ngang qua. Vợ anh ta nghĩ chắc chồng nhớ sông, nhớ quãng đời lênh đênh nên quyết ra bè sống. Sau này nước đuổi, rau trái quý như vàng, bên nhà vợ khen con rễ biết nhìn xa trông rộng. Sáo nghe chuyện nghĩ, thì anh ta hại chồng nó chết mà có giải thích gì đâu.

Mỗi khi nhìn những bông quao trắng muốt, Sáo nghiến ngầm trong bụng, thằng gian ác thằng gian ác, mình căm thù mình căm thù mình căm thù. Như thể không đinh ninh vậy thì Sáo sẽ coi anh ta như người yêu cũ mất. Vậy đâu có được.

Một bữa người ta cho phun thuốc khắp nơi trên bè. Mọi bán mua vốn đang tấp nập bỗng dưng ngưng bặt. Bà chủ của Sáo cũng không trèo đê ra với chồng. Tắm đêm giữa chừng Sáo để nguyên quần áo ướt xông vào căn phòng người đàn ông đó. Anh ta nằm im lìm như mặt ao ngày không gió, cả khi bọc tay nó trong bàn tay chai cứng vì từng chèo chống sông hồ.

- Em đi với tôi nghen…

Sáo muốn khóc. Câu nói này Sáo đã nghe lần đầu dễ chừng bảy năm trước, hồi chưa lấy chồng. Sáo đùng đưa chân khỏa nước trên sông, nói má em bệnh không ai lo. Lần thứ hai ngồi dưới chòm quao lập lòe đom đóm, nó nói má em nhận lễ của người ta rồi. Lần thứ ba là vào một mùa mưa, bữa đó đi chợ, đứng đụt mưa ở hiên nhà người ta, gió tạt làm hai ống quần sũng nước, Sáo bỗng nghe ai đó nói “em đi với tôi nghen…”, như tha thiết như thương hại, xót xa… Nó đi hết chặng đò rồi, về tới nhà vẫn còn nghe. Chục bữa sau vẫn nghe. Sáo không đi chợ nữa, cần gì thì chồng đi hoặc nhờ hàng xóm tiện thể mua giùm.

Nhưng Sáo có cài bao nhiêu cửa, có ngồi miết trong buồng thì vẫn nghe “hãy đi với tôi…”. Bằng thứ âm thanh chỉ mình nó biết, nó nói đâu có được, tui mắc nấu cơm cho chồng tui, người khác không biết ý ổng nấu ăn sẽ ấm ức lắm. Như bữa ở chợ Sáo nói mắc đi mua chỉ về cho chồng vá chài. Sáo luôn phải bận bịu, vướng víu vì ai đó, dù đôi lúc giữa đêm Sáo mặc lại áo, nó nghĩ nếu đi với Câu Nói thì giờ chắc mình được ngủ rồi.

Lần cuối cùng Sáo nghĩ tới chuyện nắm tay Câu Nói ra đi, là khi chồng Sáo nhảy lên chiếc xuồng câu bơi đi hái trộm ngò gai nêm canh cá Bạc Đầu. Nhìn theo anh rẽ lân tinh lấp lánh như con tôm mon men vào ven đó, Sáo nghĩ, nếu con cá, cọng ngò có thể làm anh vui vẻ tới vậy, thì không nó cũng không sao. Nó muốn có một đứa con được tạo thành bởi tình yêu chớ không phải bởi phép màu của cá. Đang nghĩ bùi ngùi bỗng có người tới gọi, chồng bây bị người ta đánh té xuống nước chết queo rồi. Sáo chôn cất cuộc đi, vì mắc tang tế, đòi công lý cho chồng, cúng quảy người nhà chồng. Chớ ai.

Hôm đó, Sáo chôn cất luôn những ý nghĩ chạy trốn vẩn vơ. Giờ người đàn ông này lại bảo, “Em đi với tôi nghen – Cũng câu nói hôm xưa, giờ nhuốm màu vô vọng – Chồng em có còn đâu…”. Sự vô vọng của năm chữ đằng sau phả hơi lạnh tới cả cái gật đầu của Sáo, ừ thì đi.

7

Cả hai không xếp hành lý, thậm chí không lấy ghe, cứ ào xuống nước bơi về phía bờ mà ai cũng biết là đã không còn bờ từ nước đuổi. Sau lưng, bè rau càng lúc càng rực rỡ. Ngọn đèn chong Sáo kê sát vách mùng giờ chắc đã bén lửa lan vào tận những đụn rơm phía ngoài. Người đàn ông bơi cạnh Sáo không một lần ngoái lại. Sáng hôm qua khi tiễn con gái nhỏ trở vô trong chợ, anh ta đã xiết nó đến nỗi nó kêu đau. Như không có lần sau. Giây phút đó Sáo nhận ra thứ anh ta quý nhất, đến nỗi sẵn sàng từ bỏ tất cả để có được. Là Sáo.

Nó rớt nước mắt. Đi cùng nó có gì vui đâu mà người này cứ đòi phải đi cho được, bảy năm trời không chịu thôi. Ừ vậy thì đi. Hai đứa bơi mãi trong ánh lân tinh réo rắt dìu dặt. Nước tràm trụa trên mặt, nước mặn xót mấy cái chân răng. Bơi đến kiệt sức, đến trống rỗng, đến mức có thể chìm trôi, có thể quên hết quá khứ. Chớ Sáo biết đi đâu với người đã vô tình làm chồng nó chết, bởi một cơn nóng giận, bởi một lầm lẫn, tưởng đạp rào là sẽ được bước qua.

Quanh hai con người đau đớn, cá Sầu Ngư đang nhơ nhởn họp bầy.

… Đoạn, có người hỏi rồi hai đứa đó ra sao. Tôi không biết, tôi đâu có lội theo chi. Thấy đi thì biết đã đi, vậy thôi.

(*) Từ Bi Ký

Công tới đâu thì bằng ?



Hồi chị em song sinh bên xóm còn nhỏ, tôi ngắm nghía tụi nó và nghĩ tới công bằng. Trời cho dung mạo giống hệt nhau, bà mẹ làm cho cái sự giống ấy càng thêm hoàn hảo. Hai đứa diện cùng kiểu từ tóc cho đến dép giày. Cái bánh bẻ đôi, hai cây kem cùng màu, ấm đầu sổ mũi một lượt cả hai. Không có cuộc đi chơi công viên nào mà nhà bên đó không chất lên xe đủ cặp.

Năm mười lăm tuổi, một trong hai con bé có bồ. Và cậu con trai thập thò đón đưa ngoài cỗng chấm dứt cái gọi là công bằng mà tôi huyễn tưởng. Cô em lấy chồng sớm, nhanh chóng nhàu nhừ làm mẹ của hai thằng con quậy như quỷ sứ. Chị gái thì du học ở Anh, lần về gần nhất dắt theo anh da trắng bụng nước lèo. Giờ chúng có ăn mặc giống nhau thì ý nghĩ, bầu trời cũng khác.

Tôi xếp “công bằng” vào nhóm những thứ dùng để hứa hẹn thề thốt, vì nhỏ lớn chưa từng thấy mặt mũi nó đâu. Bên ngoài biên giới thì tôi không chắc. Cướp của giàu chia cho nghèo, người ta nói công bằng đó, nhưng tôi hình dung tánh nết công bằng không hung hăng ngang ngược vậy. Không phải ai giàu cũng chỉ ngồi rung đùi mà giàu, người ta cũng lao động. Công bằng cũng không hời hợt kiểu gộp đất lại cùng làm rồi chia đều từng phần ăn. Thấy sách ghi công bằng là theo đúng lẽ phải, không thiên vị, tôi thắc mắc lẽ phải đó của ai ?

Chuyện mấy rày trộm chó bị đánh chết, nhiều người nói công bằng quá. Trời cho sinh linh nào cũng có sự sống, con chó nó cũng có cái mạng, lấy mạng trả mạng thì đúng quá còn gì. Người thì đi phá xóm hại làng, chó giữ nhà kính chủ, giá trị sống chưa biết ai hơn. Cách nghĩ này cũng chặt chẽ và đầy đủ lý tình cho cái gọi là lẽ phải. Riêng má tôi đọc báo xếp cái kiếng thở dài, nói bên nào cũng ác. Hành động hái đi một hơi thở để trả đũa cho một hơi thở bị hái, hình như không phải. Hồi còn con nít, qua vườn hàng xóm bẻ bông, thằng bên đó trả đũa bằng cách chạy qua bẻ ổi, sau thành đánh nhau. Tôi chọn đứng về phía con người, bởi nghĩ sau cái chết của anh ta, là một bà mẹ già (cũng có thể ham mê cờ bạc), một đứa con nhỏ dại, một cô gái vừa mới biết yêu.

Trả thù, một chủ đề kinh điển của văn chương và phim ảnh, cũng thể hiện cái khao khát chống lại bất công. Kết thúc phim bằng một cái chết của gã đại gian ác, hả hê quá chừng mà sao lại có cảm giác chưa xong. Làng cổ tích, chỉ có cái chết bị sét đánh của mẹ con Lý Thông là tôi nhẹ lòng nhất. Trời ra tay coi phải hơn người với người. 
     
Nghe nói Chúa kêu người ta hãy chìa má trái ra nếu bị tát vào má phải. Không phải Chúa nên chúng mình tát lại, gọi là đấu tranh tìm kiếm công bằng. Tôi cứ tưởng cái anh chàng tên đó phải rất dịu dàng, ấm áp và không gây tổn thương cho bất cứ gì. Kiểu như truyện Nhật có cô kia được cả hai anh yêu, không biết chọn ai bỏ ai và không muốn ai bị tổn thương, cổ tự tử. “Đàn bà gì thấy thương quá”, ông bạn già tôi tấm tắc. Nhưng rốt cuộc thì cô gái cũng làm tổn thương chính mình.

Coi In Time, một cái phim giả tưởng tương lai thế giới chỉ thời gian là thứ giá trị nhất, giao dịch mua bán gì thì lấy thời gian ra xài. Mua cái tăm xỉa răng tiêu tốn chút ít tuổi đời. Muốn sống lâu hơn thì phải làm việc. Giai tầng xã hội lấy thời gian nhiều ít để chia cao thấp. Mấy anh ăn cướp, dĩ nhiên cũng cướp thời gian chớ tiền bạc chẳng còn ý nghĩa gì ngoài việc đốt lên làm món cá nướng trui. Bỏ qua anh vai chính đẹp trai, tôi và chị bạn bàn tán xôn xao cái ý tưởng phim táo bạo thu chi bằng quỹ thời gian. Công bằng đó chớ đâu, làm nhiều sống nhiều làm ít sống ít, không làm thì ngủm củ từ cho sạch đất. Chị em tôi hân hoan cho tới khi chợt nhớ ra ai là kẻ chi trả điều hành quỹ thời gian kia ? Lấy gì bảo đảm thằng cha đó (thí dụ vậy) không tuồn thời gian ra bán chợ đen lấy chênh lệch, không vi vu thêm chục tuổi cho bà con bên vợ ?

Ngay cả ông trời, mà những bà cụ già tin chắc rằng tồn tại đâu đó, số mạng những người được ông tạo ra cùng một ngày giờ sinh cũng kẻ trên cao kẻ vực sâu. Ngụ ngôn kể chuyện hai con khỉ bẻ bánh không đều, nhờ cáo đứng ra làm trọng tài, cáo ma lanh ăn sạch, dân gian nhấn mạnh vào tinh thần đoàn kết, nhường nhịn yêu thương. Nhưng có bà mẹ Việt nói với con, cái bánh bẻ đôi, miếng lớn miếng nhỏ là chuyện thường, cố gắng cho gần bằng nhau (nhìn bằng mắt thường) thì ăn. Biết đâu trong lúc đánh bột không đều, bên nhiều trứng bên không.

Giải mã sự thành công của Israel và người Do Thái


Bài viết của Hoàng Anh Tuấn trên trang Nghiên cứu Quốc tế.

Jerusalem-green-building
Jerusalem, thánh địa của Nhà nước Do Thái, của Do Thái giáo và của nhiều tôn giáo lớn khác.
Lời giới thiệu của PVHg’s Home:
Những người vô tư nhất có lẽ cũng phải suy ngẫm khi nghe Albert Einstein nói: “Có hai cách sống: bạn có thể sống mà chẳng thấy cái gì là phép lạ cả; hoặc bạn có thể sống mà mọi thứ đều là phép lạ” (There are two ways to live: you can live as if nothing is a miracle; you can live as if everything is a miracle). Dường như những người có cảm xúc mạnh mẽ trước những điều kỳ lạ sẽ tạo ra nhiều phép lạ. Bản thân Einstein và dân tộc của ông – dân tộc Do Thái – là một bằng chứng. Thành công của dân tộc Do Thái chính là một trong những phép lạ đáng ngạc nhiên nhất. Tác giả Hoàng Anh Tuấn, Viện trưởng Viện nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao thuộc Bộ Ngoại giao VN sẽ giải mã một phần phép lạ đó cho chúng ta thấy. PVHg’s Home xin trân trọng giới thiệu… (ảnh lấy từ các nguồn trên mạng; chú thích ảnh của PVHg’s Home; click vào các ảnh để xem với kích thước lớn hơn)
GIẢI MÃ SỰ THÀNH CÔNG CỦA ISRAEL VÀ NGƯỜI DO THÁI
Hoàng Anh Tuấn
Nguồn: Trang Nghiên cứu quốc tế của Bộ Ngoại giao Việt Nam
http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/
Thành công của người Do Thái nhiều người đã biết, đã nghe từ lâu và có thể kể cả ngày, cả tháng cũng không hết. Là người đã tìm hiểu câu chuyện này cả chục năm nay, càng đi sâu tìm hiểu về những thành công của Israel và người Do Thái, tôi càng thấy phức tạp nhưng cũng hết sức thú vị. Chuyến đi Israel lần này, ngoài các công việc thường lệ, rất nhiều cuộc gặp gỡ, trao đổi, thảo luận với nhiều người, nhiều giới, nhiều nơi khác nhau giúp tôi kiểm chứng, củng cố thêm các nhận định trước đây của mình; biết thêm nhiều vấn đề mới; đồng thời cũng xóa bỏ một số các định kiến một chiều, phiến diện.
Có rất nhiều câu hỏi đeo đẳng trong suốt quá trình tìm hiểu để có câu trả lời thấu đáo, đại loại như:
  1. Tại sao chỉ chiếm một phần nhỏ của dân số thế giới, nhưng người Do Thái lại có sự thông tuệ vượt thời gian, hơn hẳn các dân tộc khác trên thế giới? Nếu tính theo chỉ số IQ, chỉ số trung bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới. Tuy mức chênh lệch IQ chỉ là 10, nhưng tỷ lệ thiên tài trong nhóm những người có IQ 110 cao hơn nhóm có chỉ số IQ 100 tới 120-150 lần!
  2. Phải chăng người Do Thái có “gien” thông minh hơn người và “gien” này được lưu giữ và truyền từ đời này qua đời khác?
Câu chuyện này đã được nhiều nhà khoa học âm thầm nghiên cứu để tìm câu trả lời thấu đáo. Tuy nhiên, người Do Thái lại “bác bỏ” điều nay, cho rằng sở dĩ người Do Thái thành công là do điều kiện, hoàn cảnh bắt buộc họ phải nỗ lực, sáng tạo và vươn lên không ngừng để thích nghi với hoàn cảnh. Vậy thực, hư câu chuyện này ra sao?
  1. Nếu như có “gien” Do Thái như vậy thì “gien” này được “lưu giữ” và phát triển ra sao từ thời “Cụ Tổ” của người Do Thái đến nay và trong hoàn cảnh họ bị ly tán, tha phương cầu thực?
Người Do Thái hiện nay đều coi Thủy tổ của mình là ông Abraham (và cũng là của người Hồi giáo – Người Hồi giáo gọi là Ibrahim) ra đời cách đây khoảng 4000 năm, và Nhà Tiên tri Moses, ra đời cách đây khoảng 3600 năm. Ông Mosses đã dẫn dắt các nô lệ người Do Thái chạy trốn khỏi Ai Cập và đến khu vực Bắc Israel hiện nay, thống nhất 12 bộ lạc khác để lập ra nhà nước Do Thái. Hiện nay Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái. Để dễ hình dung, nếu có một nước khác có đặc trưng tương tự như Israel, chẳng hạn Trung Quốc, thì đặc trưng nước đó sẽ là: Người Trung Quốc, nước Trung Quốc, Đạo Trung Quốc. Nhưng trên thực tế ta thấy: người Hán, nước Trung Quốc và Đạo Khổng.
  1. Tại khu vực hiện gồm phía Bắc Ai Cập, lãnh thổ Israel, Palestine, Gioóc-đa-ni hiện nay, khu vực phía Nam Syria, và phía Đông Bắc Iraq vốn trước đây là khu vực tranh chấp quyết liệt giữa bộ lạc Do Thái với các bộ lạc khác trong khu vực, cũng như giữa các đế chế lân bang với nhau như Roma, Assyria, Babilon, Ottoman… nhằm kiểm soát khu vực đồng bằng ven biển Israel và khu đồi cao Jerusalem để cho được gần với Đức Chúa trời. Sau sự kiện Ngôi đền thứ nhất của người Do Thái bị đốt năm 586 trước Công Nguyên thì mục tiêu xâm lược là để chiếm miền đất thánh Jerusalem, nơi cả 3 tôn giáo (Do Thái, Thiên chúa, Hồi giáo) đều coi là đất thiêng của mình. Vậy tại sao trong khi hầu hết các bộ tộc du mục khác bị đồng hóa, hoặc bị tuyệt diệt, nhưng người Do Thái lại “thoát” được nạn này (tuy rằng người Do Thái cũng trải qua nạn diệt chủng Holocaust và một số cuộc truy sát tập thể trong quá khứ)? Vậy họ đã “thoát” bằng cách nào?
  2. Tại sao người Do Thái lại có truyền thống hiếu học và tỷ lệ biết chữ rất cao so với những dân du mục cùng thời? Tại sao người Do Thái lại đi tiên phong trong rất nhiều lĩnh vực như khoa học tự nhiên, luật, khoa học chính trị, công nghiệp giải trí…?
Từ hàng ngàn năm trước công nguyên trẻ em Do Thái hầu hết biết đọc biết viết, và khi lưu lạc ở châu Âu, người Do Thái cũng có tỷ lệ biết đọc, biết viết cao hơn người bản địa. Cần nhớ, trước thời kỳ Phục Hưng cả châu Âu chìm đắm trong u muội, tỷ lệ mù chữ lên tới 80-90% dân số. Đến những năm 1930 của thế kỷ trước, người Do Thái gần như độc quyền trong lĩnh vực nghiên cứu năng lượng nguyên tử, thậm chí thời kỳ đó người ta còn gọi ngành khoa học này là “ngành khoa học Do Thái”.
Nhìn rộng hơn, không chỉ người Do Thái quan tâm đến chuyện học hành của con cái, mà người Đông Á, kể cả Việt Nam, cũng vậy và có thể kể ra không ít các tấm gương thành công đáng ngưỡng mộ. Nhiều gia đình sẵn sàng bán nhà, bán cửa để đầu tư chuyện học hành của con cái. Tuy nhiên đạt đến đỉnh cao trí tuệ như Albert Einstein, Karl Marx, Noam Chomski và rất nhiều nhà khoa học đoạt giải Nobel gốc Do Thái lại là một câu chuyện hoàn toàn khác. Tại sao người Do Thái làm được chuyện đó?
  1. Trên thế giới đã từng có dân tộc nào bị trục xuất, sống lưu vong trên hai ngàn năm mà vẫn giữ được bản sắc, tiếng nói, chữ viết và tập tục của mình như người Do Thái không?
  2. Các giáo sĩ (Rabbi), Hội đồng giáo sĩ và những người Do Thái chính thống là những người có địa vị và tiếng nói quan trọng trong xã hội. Vậy họ có vai trò ra sao trong việc duy trì tập tục, bản sắc và “nòi giống” Do Thái?
  3. Tại sao mô hình Kibbudz của người Do Thái lại thành công và có sức sống kỳ diệu ở Israel, trong khi mô hình này lại không thành công hoặc không thể thành công ở các quốc gia khác. Cốt lõi tạo nên thành công của các Kibbudz là gì?
  4. Khi người Do Thái được thực hiện giấc mơ “Phục quốc” năm 1948, hàng trăm ngàn người Do Thái từ trên 70 quốc gia khác nhau trên khắp thế giới đổ về mảnh đất Israel, họ đã sát cánh cùng nhau bắt tay xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp đó, sau các biến động ở Liên Xô và châu Âu trong những năm 1989-1990, 1,5 triệu người Do Thái (tức trên 1/4 dân số) trở về “cố quốc”. Mỹ, Australia, Canada cũng là quốc gia của những người nhập cư, nhưng chưa từng chứng kiến lượng lớn người nhập cư đổ về (tính theo tỷ lệ dân số) trong một thời gian ngắn đến vậy. Tuy đến từ nhiều xứ sở khác nhau, nhưng hầu hết những người Do Thái không bị gặp các rào cản ngôn ngữ và nhanh chóng hội nhập vào xã hội mới. Chuyện này thực hư thế nào và được thực hiện ra sao?
John Adams on the Jews
Còn rất nhiều các câu hỏi khác nữa. Vấn đề đặt ra là mô hình Israel và bài học thành công của người Do Thái (tạm bỏ qua một bên các khiếm khuyết và một số “thói hư, tật xấu” của người Do Thái) có thể học được không và áp dụng ở quy mô nào (gia đình, dòng họ, công ty, thiết chế, đất nước…)?
Israel: Cường quốc nông nghiệp giữa sa mạc
Do điều kiện tự nhiên, sa mạc chiếm đến 60% tổng số 20.000 km2 diện tích, nên đất đai canh tác còn lại của Israel rất ít và chủ yếu nằm ở khu vực đồng bằng ven biển. Tuy nhiên, điều này không ngăn cản Israel trở thành nước có nền nông nghiệp phát triển nhất thế giới, chủ yếu nhờ đi tiên phong trong nghiên cứu khoa học và ứng dụng các thành tựu khoa học-công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.
Đi thăm các cơ sở nông nghiệp Israel mới thấy trình độ công nghiệp hóa nông nghiệp và khả năng lập kế hoạch sản xuất, dự báo thị trường của Israel đạt đến trình độ rất cao. Có lẽ dùng từ “nông dân” đối với họ là không chính xác, mà là công nhân nông nghiệp. Ngoài ra, đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa 4 “Nhà”, gồm: (i) Nhà nước; (ii) Nhà khoa học; (iii) Nhà buôn; và (iv) Nhà nông. “Nhà nông” ở đây cần được hiểu là người bỏ vốn đầu tư, tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất nông nghiệp.
Đất đai ở Israel được nhà nước quản lý rất chặt chẽ. Nhà ở của dân thì xây trên các triền núi đá, khó cải tạo thành đất nông nghiệp, còn đất đồng bằng tuyệt đối sử dụng cho trồng trọt và canh tác. Thậm chí đất hoang mạc, nhưng tương đối bằng phẳng có thể cải tạo thành đất nông nghiệp thì cũng không được làm nhà ở trên đó.
Israel đi tiên phong trên thế giới trong lĩnh vực cải tạo đất hoang mạc, sa mạc thành đất nông nghiệp trù phú. Quy trình như sau (để đơn giản hóa): (i) San bằng đất hoang mạc, sỏi đá; (ii) Phủ lên đó 1 lớp đất dày, ít nhất là 1/2 m; (iii) Trồng các loại cỏ hoặc cây dại không cần tưới nước khoảng từ 3-5 năm, để biến đất chết thành đất màu; (iv) Sau quá trình cải tạo này, đất hoang mạc biến thành đất nông nghiệp và được giao cho các chủ đất (nhà đầu tư) để tiến hành sản xuất.
Về mặt sinh thái, bước vào thế kỷ 21, Israel là nước duy nhất trên thế giới đã mở rộng được diện tích rừng và quỹ đất nông nghiệp.
Tuy là nước nhỏ, có 8 triệu dân, nhưng Israel lại có hệ thống đường dẫn nước tái sử dụng dài nhất thế giới. Toàn bộ lượng nước thải được dẫn trở lại các trung tâm xử lý, lọc lại, sau đó được dẫn ngược trở lại theo các đường ống để sử dụng tưới tiêu cho nông nghiệp.
Hệ thống ống dẫn nước tưới được dẫn đến từng khoảnh vườn, tới từng cây và việc tưới được vi tính hóa qua hệ thống điều khiển ở trung tâm về thời gian tưới, lượng nước tưới sao cho phù hợp nhất với thời tiết, độ sinh trưởng của từng loại cây. Cũng từ trung tâm, các kỹ sư nông nghiệp sử dụng luôn đường ống dẫn nước để dẫn phân bón hoặc chất dinh dưỡng cần cho cây theo định kỳ.
Tại đầu từng khoảnh vườn, có bảng ghi chi tiết vườn trồng cây gì, giống nào, từ khi nào… Nhìn chung các cây trồng (cam, bưỏi, cà chua, ớt.. ) là những loại cây trồng có năng suất cao, đã được lai ghép cho phù hợp với điều kiện thổ nhưỡng Israel là chịu nắng, chịu khô, chịu sâu bệnh nhưng lại cho năng suất cao và chất lượng quả, trái cây tốt.
Mỗi cây cam hoặc bưởi trông thấp như vậy nhưng lại rất sai quả và có thể cho đến vài tạ quả/cây khi đến mùa thu hoạch. Với lợi thế là trồng cây quả nhiệt đới có chất lượng cao, ổn định, hệ thống kiểm định chất lượng chặt chẽ, ở ngay sát châu Âu và cung cấp những hoa quả nhiệt đới “trái vụ” khi châu Âu bước vào mùa đông nên hoa quả Israel có rất nhiều lợi thế về giá và thị trường.
Đây có lẽ chính là mô hình đầu tư, sản xuất, phát triển và kinh doanh nông nghiệp mà một nước nông nghiệp như chúng ta cần học hỏi và để làm giàu tại ngay chính mảnh đất quê hương mình. Nếu so với Israel, có lẽ đất đai miền Trung Việt Nam còn màu mỡ và có các điều kiện tự nhiên để sản xuất tốt hơn nhiều. Ngay một nước có nền nông nghiệp phát triển nhất ở khu vực như Thái Lan cũng có hàng ngàn thực tập sinh lao động trong các trang trại, mà thực chất là lao động xuất khẩu.
Có điều ít người để ý là trong khi thực tập sinh Việt Nam chăm chỉ làm lụng, tiết kiệm từng đồng gửi về cho gia đình, vợ con, thì khá nhiều “lao động” Thái là các “tình báo” nông nghiệp. Họ là các kỹ sư, con cái các chủ nông trại Thái, những người nuôi chí làm giàu bằng nghề nông và sử dụng thời gian lao động tại Israel như một hình thức “khổ nhục kế”, âm thầm tìm hiểu quy trình sản xuất, kinh doanh, quản lý… để tìm đường khởi nghiệp làm giàu cho mình và cho nước Thái sau này.
Vậy ta nên và sẽ làm gì? Xin nhường câu trả lời cho các bạn trẻ.
Kinh Do Thái, lối sống, bản sắc, và tiếng Hebrew
Có ba câu chuyện ngồi ngẫm lại thấy khá hay và cũng phần nào liên quan đến chủ đề sắp bàn dưới đây.
morning-prayers-at-the-western-wall-in-jerusalemBức tường Phía Tây, hay còn gọi là Bức tường Than khóc (Wailing Wall) là nơi hàng năm có tới 3 vạn người đến cầu nguyện. Với người Do Thái từ xa xưa tới nay tôn giáo là nền tảng của đạo đức và quản lý xã hội, tạo nên sức mạnh đoàn kết dân tộc, duy trì truyền thống và xây dựng một nền kinh tế, khoa học và công nghệ thần kỳ như hiện nay. 
CÂU CHUYỆN 1: Công việc đã xong, nhưng rủi một cái là không thể bay về được vì là ngày Thứ 7 nên hãng hàng không Israel El Al không làm việc. Nhưng lại có cái may là nhờ đó hiểu được thêm về kỳ nghỉ cuối tuần Thứ 6 và Thứ 7 (lễ Sabbath, người Do Thái đi làm từ Chủ nhật đến hết Thứ 5) của người Do Thái. Khi đi trên đường, đặc biệt ngày Thứ 7, thấy đường phố vắng ngắt và gặp không ít đàn ông Do Thái chính thống (Jewish Orthodox) mặc bộ đồ đen, đầu cũng đội mũ đen rộng vành, đứng trên vỉa hè, hai tay cầm quyển Kinh thánh Do Thái đọc lẩm nhẩm hàng tiếng đồng hồ với động tác hết sức thành kính và giữa trời nắng chang chang, trong khi đầu gật tới gật lui. Điều này không chỉ gây cho tôi sự ngạc nhiên thích thú, mà còn gợi ra rất nhiều điều.
CÂU CHUYỆN 2: Trước đó, khi chia tay Đại sứ Dan Stav, người tháp tùng trong suốt chuyến đi, tôi có nói rằng “Khi tôi mới đến nơi, ông Đại sứ có nói Bộ Ngoại giao Israel có khoảng 1000 nhà ngoại giao. Giờ đây khi đã xong các cuộc tiếp xúc tôi chỉ đồng ý một nửa. Các ông không chỉ có 1000 nhà ngoại giao, mà đó còn là 1000 Giáo sư nữa”. Dan ngửa mặt cười ha hả. Quả thực, hiếm có nước nào, kể cả các cường quốc, lại có nhiều nhà ngoại giao nắm giữ các vị trí chủ chốt nhưng lại có trình độ khá đều tay, am hiểu sâu chuyên môn và có thể trình bày vấn đề mạch lạc như một giáo sư đại học. Không chỉ rành chuyên môn, họ còn thể hiện tác phong hết sức chuyên nghiệp, động tác mạnh mẽ, dứt khoát.
CÂU CHUYỆN 3: Khi vào phòng làm việc với Lãnh đạo Bộ Ngoại giao và Bộ Quốc Phòng của họ, tôi hơi ngạc nhiên khi thấy phòng khách bày biện khá đơn giản, không rõ chỗ ngồi của chủ và khách. Bèn hỏi cô lễ tân là ngồi thế nào, cô để “Sếp” cô ngồi đâu. Câu trả lời là: Các ông ngồi thế nào thì tùy và chỉ cần để một chỗ cho ông ấy ngồi là OK. Sau này mới thấy rõ hơn, trừ một số cuộc gặp phải tuân thủ một số nghi lễ ngoại giao bắt buộc, việc ngồi tự do (free sitting) tạo không khí thảo luận thoải mái và bình đẳng giữa chủ và khách, càng ngạc nhiên hơn khi đây cũng chính là cách người Israel ngồi khi thảo luận nội bộ!
Quay trở lại Phần 1, tôi thấy rằng các câu trả lời về nguyên nhân thành công của người Do Thái, sự cố kết của dân tộc này đều khởi nguồn từ 3 yếu tố chính (i) cuốn Kinh Do Thái (Jewish Bible), (ii) cách thức duy trì Đạo, bản sắc và lối sống Do Thái; và (iii) tiếng Hebrew. Các vấn đề khác như “gien” và tố chất thông minh của người Do Thái; tính hiếu học, ham hiểu biết và sáng tạo; cách duy trì và tổ chức cuộc sống, đời sống xã hội một cách văn minh, lành mạnh của họ đều bắt nguồn từ 3 yếu tố trên. Và cũng thật trớ trêu, đây lại là nguyên nhân chính khiến họ bị xua đuổi, miệt thị, truy sát trong hơn 20 thế kỷ qua. Tôi cũng nghiệm thấy rất ít dân tộc, quốc gia có thể học được theo họ, trừ phi anh cũng trở thành… người Do thái như họ!
Ta hãy đi từng vấn đề một:
Thứ nhất, Israel là đất nước duy nhất trên thế giới được định hình bởi 4 yếu tố mang đậm chất Do Thái là: (i) Dân tộc Do Thái, (ii) Đạo Do Thái, (iii) văn hóa Do Thái, và (iv) Đất nước Do Thái.
Trong các tôn giáo trên thế giới, Đạo Do Thái được ghi nhận là đạo có tuổi đời lâu thứ hai trên thế giới (ra đời cách đây khoảng 3000 năm), sau Đạo Hindu (ra đời cách đây khoảng 4000 năm). Tuy nhiên, do Hindu là đạo đa thần, nên Do Thái giáo có thể xem là đạo độc thần (Monotheistic) ra đời sớm nhất thế giới. Đạo Độc thần là đạo chỉ thờ 1 vị chúa/thần/hoặc thánh duy nhất. Đạo Do Thái chỉ thờ duy nhất Chúa trời, nên trên bàn thờ trong nhà thờ Do Thái họ trang trí đơn giản, không thờ người hoặc động vật. Họ cho rằng, người là người, dứt khoát không thể là chúa hay thánh được và chỉ có một Đức Chúa trời duy nhất. Phải chăng điều này làm cho người Do Thái cũng như sinh hoạt tôn giáo của họ “dân chủ” hơn do không bị phân tán, mất bớt quyền lực qua các nhân vật trung gian?
Một điều rất đặc biệt là trong cuốn Kinh Torah (gồm 5 tập, ghi lại các lời của Nhà tiên tri Moses) có ghi người Do Thái được Đức chúa trời chọn (the Chosen People) để truyền đạt thông điệp của Chúa cho các dân tộc khác, dẫn dắt và khai sáng các dân tộc khác. Người Do Thái rất tin vào điều này, tin vào “sứ mạng” được Chúa giao phó. Đây có lẽ là động lực lớn nhất khiến người Do Thái luôn tìm cách đạt đến đỉnh cao của khoa học, phấn đấu đủ tầm trí tuệ “dẫn dắt” nhân loại như họ nghĩ đã được “Chúa lựa chọn”. Do đó, điểm nổi bật nhất ở người Do Thái là họ thấy mục đích cao nhất của cuộc sống là sáng tạo, chứ không chỉ là kiếm tiền, và kiếm tiền cũng như sự giàu có của họ thực ra là hệ quả của các lao động sáng tạo chứ không phải mục đích mà họ theo đuổi.
Thứ hai, trong bất kỳ tôn giáo nào, tính “Giáo điều” đều tồn tại, duy chỉ khác nhau về mức độ. “Giáo điều” là những điều được ghi trong kinh/kinh thánh hoặc được các Bề trên giảng và được coi mặc nhiên đúng, không bàn cãi. Tuy nhiên, bản kinh Torah của người Do Thái lại rất gợi mở để mọi người suy nghĩ, khám phá. Trong 5 cuốn Kinh Torah thì có đến 4 cuốn nói về luật và 1 cuốn về các vấn đề trong cuộc sống, sinh hoạt hàng ngày. Torah ghi các vấn đề trong cuộc sống, đặt ra các câu hỏi, gợi mở để suy nghĩ, nhưng lại không chỉ có một câu trả lời, mà có nhiều câu trả lời tùy thuộc bối cảnh khác nhau, và thậm chí còn để khoảng trống để mọi người cho trí tưởng tượng bay bổng với các hỏi và câu trả lời. Trong bữa cơm gia đình cuối ngày, hoặc trong ngày Sabbath, các thành viên trong gia đình, trong cộng đồng đọc và tranh luận các điều ghi trong kinh thánh, và có thể chính điều này làm tăng thêm năng lực trí tuệ, làm cho họ rất giỏi về luật.
Thứ ba, các bạn Israel cho biết, cuốn Kinh Torah giống như một cuốn sách khoa học hơn là một cuốn kinh với các “Giáo điều”. Chẳng hạn, trong Kinh Torah ghi rõ ngày Thứ 7 là ngày Chúa nghỉ ngơi, nên tất cả mọi người Israel, kể cả các nô lệ và súc vật không được làm việc trong những ngày này. Ngày lễ Thứ 7 của họ gọi là ngày lễ Do Thái (Sabbath) được xem là ngày “nghỉ tuyệt đối”, theo đó Chúa khuyên các thành viên trong gia đình dành thời gian này bên nhau, cùng trò chuyện, đi chơi, vợ chồng “yêu” nhau, gia đình cùng nhau đi đến nhà thờ (Synagogue). Trong ngày này, mọi người không được bật lửa (vì thời xa xưa, bật lửa có nghĩa là phải vào bếp nấu nướng, tức vẫn “đi làm”) và ăn đồ ăn được chuẩn bị từ hôm trước. Thậm chí thang máy trong các cao ốc cũng để “chế độ Sabath”, tức người Do Thái không dùng tay bấm nút (biểu hiện của “làm việc”), mà để thang tự chạy automatic và mở cửa trước từng tầng một từ tầng thấp nhất đến tầng cao nhất của tòa nhà. Ngày Chủ nhật là ngày làm việc đầu tiên của họ, và điều ngạc nhiên là theo cách gọi trong Kinh thánh Do Thái các ngày làm việc trong tuần theo tuần tự là các ngày “sáng tạo”, chứ không phải ngày “đi làm”.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng gợi ra một số điều thú vị:
Ngày thứ 7 nghỉ tuyệt đối để lấy sức lao động cho các ngày khác trong tuần và đây có thể là nguồn cảm hứng cho việc đấu tranh đòi quyền của người lao động sau này;
Lễ Sabbath tạo sự gắn kết giữa các thành viên trong gia đình (khi cả nhà cùng ngồi ăn quay quần bên nhau), và giữa các thành viên trong cộng đồng (khi hàng xóm cùng kéo nhau đến nhà thờ);
Là cơ sở của việc đấu tranh giành quyền bình đẳng phụ nữ (không lao động trong ngày Sabbath) sau này, cũng như quyền của động vật;
Vợ chồng “sản xuất” em bé trong ngày nghỉ khi tinh thần thoải mái thì đứa trẻ sau này cũng sẽ thông tuệ hơn.
Người Do Thái coi trọng chuyện học hành
Người Do Thái rất chú trọng đến chuyện học hành và chữ nghĩa của con cái. Cuốn Kinh Talmud từ cách đây trên 2000 năm đã yêu cầu các ông bố, bà mẹ phải dạy cho con cái biết đọc, biết viết từ năm lên 6 tuổi. Điều này, cũng như một số giáo lý khác trong kinh Talmud, được người Do Thái thực hiện hết sức nghiêm túc (sẽ nói kỹ sau), một phần vì thấy đúng, một phần vì sợ bị cộng đồng xa lánh. Do đó, từ cách đây trên 2000 năm người Do Thái cơ bản xóa được nạn mù chữ, với trên 90% người dân biết đọc, biết viết.
Đối với cuộc sống của con người hiện đại thời nay, điều này là quá sức bình thường. Tuy nhiên, đặt trong bối cảnh người Do Thái là những người du mục, nông dân, thậm chí tha phương cầu thực mà vẫn giữ được truyền thống này, trong bối cảnh tới trên 90% dân châu Âu và các sắc dân khác ở Bắc Phi, Trung Đông ở xung quanh thời đó mù chữ thì đây quả là điều phi thường. Không chỉ thời nay người Do Thái mới được trọng dụng và phát huy vai trò, mà vào thời cực thịnh của Đạo Hồi (thế kỷ IX-XIII) sau Công nguyên, người Do Thái được người Hồi giáo tin dùng và đóng vai trò nổi trội là các thương gia biết tính toán, “ăn nên, làm ra” với hệ thống buôn bán kéo dài từ Trung Đông, qua Nam Á và Đông Nam Á, thậm chí tới Thượng Hải.
Vậy trong điều kiện bị chiếm đóng và lưu lạc, họ duy trì được chữ viết và tiếng nói của mình ra sao trong hàng ngàn năm mà không bị mai một? Câu trả lời chính là sự sùng đạo và cuốn kinh Do Thái viết bằng tiếng Hebrew.
Hầu hết những người Do Thái mà tôi gặp, dù là người Chính thống hay người Do Thái bình thường, đều nói rằng khi gặp nạn, vật đầu tiên và cũng là vật quý giá nhất mà người Do Thái đem theo đầu tiên đó chính là CUỐN KINH THÁNH, chứ không phải bất cứ vật dụng nào khác. Cuốn Kinh thánh Do Thái (Hebrew Bible) đối với họ vừa là đức tin, vừa là lịch sử, vừa là nguồn tri thức, vừa giúp họ giữ được bản sắc, vừa giúp họ có tương lai:
Một là, sự sùng đạo, khiến người Do Thái phải đọc kinh liên tục, đọc thuộc làu, đọc ở trong nhà, đọc ngoài đường, đọc ở nhà thờ… giúp người Do Thái giữ được tiếng nói, nhận diện được ngôn ngữ đặc trưng của mình và được truyền từ đời này qua đời khác.
Hai là, khi lưu lạc sang các xứ khác nhau, ngữ âm của họ có bị thay đổi do phát âm theo thổ ngữ địa phương, nhưng cơ bản họ vẫn hiểu được nhau dù lang bạt hàng ngàn năm, và tới tận 73 quốc gia và lãnh thổ khác nhau. Điều đó giải thích tại sao người Do Thái từ “tứ xứ” đổ về, nhưng đã nhanh chóng gắn kết với nhau ngay sau khi Israel được tái lập năm 1948.
Ba là, không chỉ thạo tiếng Hebrew, mà người Do Thái còn thạo tiếng bản địa nơi họ sinh sống. Như vậy trên thực tế, người Do Thái sử dụng thông thạo hai ngoại ngữ từ rất sớm. Khoa học đã chứng minh, những người hoặc nhóm cộng đồng sử dụng được trên 1 ngoại ngữ thường có chỉ số IQ lớn hơn nhóm, hoặc người sử dụng ít ngôn ngữ hơn. Không chỉ vậy, kinh thánh không chỉ là phương tiện duy trì ngôn ngữ, mà còn giúp họ mở mang các kiến thức luật, kinh tế và khoa học thông thường ở trong đó.
Bốn là, niềm ao ước tột cùng trở về Jerusalem cũng được ghi trong Kinh thánh. Thời cổ đại, dù muốn đi đâu, làm ăn gì, thì người Do Thái cũng quy ước về quần tụ tại Jerusalem để hành lễ ít nhất là 4 lần 1 năm. Đến nay, truyền thống đó vẫn được duy trì và người Do Thái ở Israel thường về Jerusalem mỗi năm một lần, còn người Do Thái ở khắp nơi trên thế giới thì về ít nhất 1 lần trong đời. Kinh Thánh Do Thái ra đời trong bối cảnh người dân Do Thái đã từng mất tổ quốc, mất Jerusalem trong một thời kỳ dài từ hàng trăm năm trước đó. Do đó, Kinh Thánh nhắc nhở người Do Thái rất kỹ về điều này. Truyền thống có từ cả ngàn năm nay và đến nay vẫn được duy trì trong cộng đồng Do Thái, là khi gặp nhau, hoặc khi viết thư, họ thường nói đến việc “sớm hẹn gặp nhau tại Jerusalem”, “hẹn gặp tại Jerusalem vào năm tới”. Do đó, ước nguyện trở về Jerusalem, lấy lại Jerusalem luôn cháy bóng trong mỗi người Do Thái và họ không bao giờ quên điều này khi tha hương.
Đạo Do Thái và việc duy trì nòi giống
Việc thực hiện nghiêm ngặt các phong tục tập quán của Do Thái giáo giúp người Do Thái sàng lọc gien “xấu”, lấy và nhân giống gien “tốt”. Thực ra, không chỉ người Do Thái làm vậy, mà các dân tộc khác như ngoài Hoa và Việt Nam cũng có những vần thơ để chọn người xứng đôi, vừa lứa như “Trai anh hùng, gái thuyền quyên”, “Nữ tuệ tam tài nguyên thị đối” (Gái giỏi trai tài nom thật đối), v.v…. Chắc chắn đây không chỉ là chuyện “tâm đầu, ý hợp” của trai gái, mà còn liên quan đến việc duy trì nòi giống sau này.
Nếu như người Đông Á chỉ dừng lại ở mức “khuyên răn” thì người Do Thái đã “luật hóa” và “hệ thống hóa” được việc chọn lọc có chủ đích thay cho việc chọn lọc tự nhiên, vô thức để “hoàn thiện” và “phát triển” gien của mình:
Một là, trong Đạo Do thái, Giáo sĩ (các Rabbis) là những người được chọn từ những người thông minh nhất. Các Rabbis là người diễn giải Kinh thánh có uy tín và trọng lượng nhất, duy trì các giá trị “chính thống” và được xã hội hết sức trọng vọng. Tuy là thầy tu, nhưng các Rabbis vẫn có con như những người bình thường, và thậm chí có rất nhiều con. Do có uy tín cao trong xã hội, nên họ dễ dàng chọn hôn thê và hôn thê được họ ưu tiên chọn thường là con cái của các học giả (scholars), rồi sau đó mới đến con các nhà buôn.
Hai là, không chỉ các Rabbis chọn như vậy, kinh thánh Do Thái thậm chí còn khuyên mọi người là nếu có tiền của thì hãy tìm cách cho con cái của mình lấy con gái của các học giả. Kinh thánh khuyến khích người Do Thái sinh nhiều con, cho rằng sinh 13 con thì sẽ có nhiều may mắn. Nhưng trên thực tế lại có các “phanh hãm” đối với người nghèo, người ít học là sinh ra con cái nhưng phải đảm bảo các điều kiện kinh tế và tài chính. Chính điều này làm cho người nghèo, người ở tầng lớp thấp không “sinh tràn lan”, mà sinh có trách nhiệm và số người này chiếm tỷ lệ ngày một ít đi trong so sánh tương đối với những người có “gien” tốt, hoặc có điều kiện vật chất tốt hơn. Trải qua hàng ngàn năm chọn lọc có điều kiện như vậy nên việc có được nhiều gien tốt trong người Do Thái là điều dễ hiểu.
Ba là, trong quan niệm Do Thái chính thống, và ngay tại các khu vực người Do thái chính thống sinh sống hiện nay tại Israel, phụ nữ, con gái không bao giờ được “bén mảng” đến Nhà thờ. Trái lại, đàn ông dù bận công việc đến mấy cũng tìm cách đến nhà thờ vào lúc 6h chiều hàng ngày để làm lễ trước khi về nhà. Tuy nhiên, phụ nữ Do Thái lại được xem là có “quyền năng” tuyệt đối trong việc duy trì nòi giống. Con của một phụ nữ Do Thái đương nhiên được coi là người Do Thái, còn con của người đàn ông Do Thái với một phụ nữ không phải Do Thái thì chỉ được coi là người Israel (nếu như sống ở Isael), chứ không được coi là người Do Thái. Thời xa xưa, việc gia đình người Do Thái có một cô con gái lấy chồng không phải người Do Thái bị coi là “nỗi nhục” của cả gia đình và dòng họ, và người bố “từ con” bằng cách đào một nấm mộ giả coi như đứa con mình dứt ruột đẻ ra đã chết.
Nhiều nhà thần học mà tôi có điều kiện tiếp xúc cho rằng Đạo Do Thái hiện là một trong số ít tôn giáo “giữ” được “kỷ cương” khá tốt. Tuy nhiên vẫn còn có nhiều ý kiến khác nhau xung quanh câu chuyện này và cần nghiên cứu sâu hơn mới có câu trả lời thỏa đáng. Quả thực, bất kỳ tôn giáo lớn hoặc quan trọng nào đều đứng trước 3 thách thức lớn trong quá trình phát triển, đó là:
- Duy trì được sự thống nhất, giữa các dòng, nhánh, xu hướng khác nhau trong cùng một tôn giáo, duy trì một đức tin chung trong thể thống nhất. Ví dụ, sự phân liệt rõ nhất thể hiện ở Đạo Hồi hiện nay với các dòng Shia, Suni, rồi nhánh Wahabis thuộc Suni, nhánh Alewite, Druze thuộc dòng Shia…, mà dòng, nhánh nào cũng cho mình mới là “chính thống”, còn những dòng, nhánh khác là “ngoại đạo”, cần bị loại bỏ để làm “trong sạch” Đạo Hồi;
- “Đồng hành” cùng xã hội hiện đại, nhưng vẫn duy trì các giá trị, các nguyên tắc “cốt lõi” (tức tính chất “chính thống”, mặc dù việc diễn giải và tự nhận các tính chất này còn nhiều điều phải bàn);
- Tránh việc tạo ra một tầng lớp “tăng lữ” mới, với các đặc quyền, đặc lợi, hủy hoại chính tôn giáo của mình.
Do Thái giáo cũng không phải là ngoại lệ, nhưng ít gặp các “vấn nạn” ở trên hơn, do:
- Ngay khi ra đời, Do Thái giáo đã không có “vấn nạn”, đưa đến sự kình chống nhau sâu sắc giữa các dòng tu. Đạo Hồi chẳng hạn, ngay sau khi Nhà tiên tri Mohamed qua đời, sự giằng xé giữa những người cho rằng cần phải chọn người thừa kế hoặc có dòng màu trực hệ để “hướng đạo” hạy chọn những người có khả năng nhất trong việc kế thừa và phát triển di sản của Mohamed đã đưa đến việc phân chia Hồi giáo thành 2 nhánh lớn là Shia và Suni. Do Thái giáo cũng có những dòng hết sức cực đoan, thậm chí không công nhận Nhà nước Israel, nhưng họ vẫn hợp tác, và không đi đến chỗ đối đầu nhau bằng bạo lực. Những người có tác dụng giữ sự hòa hợp và thống nhất Đạo Do Thái là các giáo sĩ và Hội đồng giáo sĩ.
- Trong hệ thống luật dân sự của Israel, còn có luật Do Thái Halakha tương tự như luật Sharia của Hồi giáo mà một số nước như Arab Saudi, Brunei… áp dụng. Halakha bao gồm 613 điều răn (commandments) với hệ thống tòa án riêng, và các “bản án” tôn giáo đối với người có đạo thậm chí còn đáng sợ và nghiêm khắc hơn các bản án dân sự. Luật Halakha tồn tại trong mọi ngóc ngách của đời sống xã hội, can thiệp sâu và điều chỉnh rất nhiều quy tắc, tập tục của đời sống xã hội. Nếu không tuân theo Halakha, các Rabbis có quyền rút “Phép thông công” (excommunicate) – tương đương với một bản án tử hình – và điều này cũng đồng nghĩa với việc khi qua đời, linh hồn người chịu hình phạt đó không được bay lên Thiên đàng.
- Người theo Đạo chính thống Orthodox tin và tự chọn cho mình lối sống theo các giá trị truyền thống và nguyên tắc nguyên thủy. Tuy nhiên, họ không tìm cách áp đặt lối sống của mình hay kỳ thị những người thế tục. Bản thân các Giáo sĩ (Rabbis) và những người Orthodox không được hưởng đặc quyền, đặc lợi, họ thỏa mãn với cuộc sống thanh bạch của mình. Trong đạo Hồi chẳng hạn, những người Wahabbis cũng có cuộc sống thanh bạch, khắc khổ, nhưng điều nguy hại là họ lại tìm cách áp đặt lối sống của mình lên những dòng, nhánh khác.
- Khác với các Đạo giáo khác là tìm mọi cách truyền đạo để mở rộng thành viên, càng nhiều càng tốt. Tuy nhiên, để trở thành một người Do Thái rất khó, phải có căn cứ, bằng chứng xác nhận tới ít nhất 4 đời trước đó và quy theo mẫu hệ. Họ cho rằng, đã là “thiên sứ nhà trời”, “được chúa chọn” thì chỉ có ít người được hưởng vinh dự, chứ đâu có thể kết nạp tràn lan, cứ vào đến synagogue (nhà thờ Do Thái) là trở thành Do Thái ngay được.
Trong những điều kiện khắc nghiệt thời kỳ Đế quốc La mã là bá chủ khu vực Trung Đông, để tránh bị truy đuổi và tận diệt, người Do Thái buộc phải cải đạo sang đạo Thiên chúa. Tuy nhiên họ lại cải đạo trở lại thành người Do Thái khi điều kiện cho phép. Bản thân Hitler là người rất căm thù dân Do Thái, một cộng đồng đoàn kết nhưng sống tách biệt với người bản xứ. Trong con mắt Hitler, đã sinh ra là một người Do Thái thì sẽ luôn luôn là một người Do Thái, cải đạo chẳng giúp ích gì, và quyết truy sát 1 người nếu tìm được bằng chứng trước đó 4 đời họ là người Do Thái.
Tản mạn thay lời kết: Chuyện ăn uống và tố chất của người Do Thái
Đồ ăn Kosher (Kosher food) là đồ ăn được chế biến và ăn theo kiểu Do Thái. Đối với người Do Thái Chính thống, việc sử dụng Kosher là điều gần như bắt buộc, còn đối với người thế tục thì tùy lựa chọn. Các canteen phục vụ tai các cơ quan chính phủ Israel như Bộ Ngoại giao hay Bộ Quốc phòng nghiễm nhiên là các nhà hàng phục đồ ăn Kosher. Đồ ăn Kosher hiện ngày càng trở nên phổ biến tại Israel và trên khắp thế giới và không chỉ người Do thái chính thống mới dùng. Hiện nay, có 100.000 loại thực phẩm Kosher khác nhau được bán trên phạm vi toàn thế giới.
Vậy Kosher là gì và ăn như thế nào? Trong Halakha quy định rất rõ, chi tiết và khá phức tạp, nhưng chung quy lại có một số điểm chính:
Về các thức ăn Kosher:
- Một số con vật ăn được: chỉ ăn những con vật có móng chẻ, ăn cỏ và nhai thức ăn lại như bò, dê, cừu. Các con vật không ăn được là lợn, ngựa, và lạc đà. Lợn tuy có móng chẻ nhưng không nhai lại, còn ngựa, lạc đà tuy ăn cỏ nhưng không có móng chẻ.
- Ăn các loài có cánh như gà, vịt, ngỗng, bồ câu… Không ăn các loài chim ăn thịt như diều hâu, chim ưng, đại bàng.
- Ăn các loài cá có vây và vẩy như các hồi, cá ngừ, cá trích… Không ăn các con cá không vảy như lươn, các trê, cá tầm, tôm, tép, nghêu sò, ốc hến, các loài bò sát, côn trùng.
- Các thức ăn trung tính như trái cây, nước trái cây, ngũ cốc, trứng gà vịt, mật ong, rượu vang, chè, café.
Về cách ăn đồ Kosher:
- Chỉ uống sữa và các vật phẩm chế biến từ sữa của các con vật Kosher như bò, dê, cừu. Chỉ được dùng sữa và các vật phẩm chế từ sữa 6 tiếng sau khi dùng thịt, hoặc 30 phút trước khi ăn thịt chứ không được ăn, uống đồng thời. Đồ chế biến sữa và thịt, kể cả chậu rửa bát nhất thiết phải dùng riêng.
- Lúa mì, gạo, và một số loại rau, củ nhất định thì ăn được. Không ăn, uống nước trái cây hoặc đồ chế biến từ các loại loại quả như cam, quýt, bưởi… dưới 3 tuổi.
- Không ăn nội tạng động vật hay gia cầm; không ăn phần phía sau của con thú và không ăn thịt, cá đồng thời.
- Khi ăn thịt phải lấy hết sạch máu và người chế biến phải học cách giết con vật sao cho con vật chết nhanh nhất, không đau đớn, nhưng lại ra được hết tiết. Thậm chỉ còn phải rửa sạch và ngâm miếng thịt trong nước 30 phút trước khi chế biến để ra hết máu,
- Các nhà hàng Kosher nhất thiết phải do đầu bếp Do thái chính thống trực tiếp nấu nướng và bị phạt rất nặng, kể cả tước giấy phép kinh doanh, hành nghề nếu vi phạm.
Có lẽ trên thế giới không có dân tộc nào có kiểu ăn “kiêng, khem” phức tạp và rườm rà như người Do Thái chính thống. Các nhà hàng phục vụ đồ ăn Kosher thường đắt hơn từ 20-30% so với nhà hàng thông thường, vậy mà lúc nào cũng đông khách ăn.
Theo tôi, đây không chỉ là đồ ăn kiêng của người Do Thái, mà THỰC CHẤT KOSHER LÀ ĐỒ ĂN, CÁCH ĂN THÔNG MINH, KHOA HỌC, THẬM CHÍ LÀ LÝ TƯỞNG không chỉ của người Do Thái, mà của con người nói chung. Nếu chỉ khuyên nhủ thông thường sẽ ít người theo, nhưng khi khoa học được “phủ” một lớp màu tôn giáo thì Kosher đã trở nên thành món ăn kỳ ảo, mê hoặc và quyến rũ.
Tạm cắt nghĩa một số thứ:
- Theo người Do Thái, con vật cũng như con người đều có linh hồn. Nếu làm cho con vật chết đau đớn thì nó sẽ oán trách và cả người thịt lẫn người ăn nó đều bị “quở phạt”. Do đó, giết nhanh để con vật mau chóng được hóa kiếp lên thiên đàng.
- Khi con vật cắt được tiết nghĩa là con vật còn tươi, chứ không phải ăn đồ ôi. Thú tính và sự ngu muội của con vật nằm ở “dòng máu”, và ăn thú vật hay gia cầm có tiết sẽ làm con người lâu dần nhiễm “thú tính” và đầu óc trở nên trì độn, còn nòi giống đi đến chỗ thoái hóa.
- Thịt ăn cùng với cá không còn tác dụng bổ dưỡng nữa, mà triệt tiêu lẫn nhau. Còn trái cây trong 3 năm đầu thường chứa nhiều chất, độc tố có hại cho cơ thể.
- Uống sữa sau khi ăn thịt không tốt cho sức khỏe vì bản thân thịt nhiều chất đạm, lâu tiêu lại có thêm chất bổ dưỡng khác nữa làm cho cơ thể không thể hấp thụ nổi và dễ sinh bệnh.
- Trong điều kiện thiên nhiên hết sức khắc nghiệt của vùng Bắc Phi – Trung Đông, việc ăn uống tốt giúp người Do Thái chống chọi tốt hơn với khí hậu khắc nghiệt, làm cho không chỉ thể trạng khỏe khoắn mà trí tuệ của họ cũng hơn người. Các cụ nhà ta chả nói bệnh vào từ mồm đó sao?
Như vậy, trải qua cả ngàn năm, với cuốn Kinh Thánh Hebrew, người Do Thái không chỉ thành công trong việc bảo tồn, mà còn phát triển bản sắc, văn hóa, tôn giáo của mình. Không những vậy, thông qua ăn uống, cuộc sống tinh thần lành mạnh, làm cho “gien Do Thái” vốn đã ưu việt, ngày một trở nên ưu việt hơn. Khác với các tôn giáo khác, người Do Thái không tìm cách phát triển tôn giáo của mình qua con đường truyền đạo như Đạo Hồi, Đạo Thiên chúa, hay Đạo Phật, mà tìm cách giữ sao cho Do Thái giáo càng “thuần khiết” càng tốt. Phải chăng những người được Chúa “chọn mặt gửi vàng” đâu có thể phát triển tràn lan được!
Có lẽ chính vì vậy mà cách đây từ trên 3.000 năm Nhà tiên tri Moses của người Do Thái đã lường trước điều này khi ông, ngay từ khi đó, đã hình dung ra rằng nếu người Do Thái làm theo các lời răn dạy của ông thì họ sẽ trở thành đối tượng bị săn đuổi và tận diệt của nhiều sắc dân khác và vì vậy đã chuẩn bị cho họ hành trang đầy đủ trong cả ngàn năm thiên di trước khi “trở về Jerusalem”. Điều ngạc ngạc nhiên là người Do Thái không than thân, trách phận mà họ coi đó là “sự thử thách” của Chúa trời đối với dân tộc Do Thái!
TS. Hoàng Anh Tuấn là Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chiến lược và Ngoại giao, Bộ Ngoại giao Việt Nam. Bài viết tổng hợp những ghi chép đăng lần đầu trên trang Facebook của tác giả về chuyến công tác tới Israel gần đây, thể hiện quan điểm cá nhân, không phải quan điểm của cơ quan nơi tác giả công tác.

- See more at: http://nghiencuuquocte.net/2014/10/10/giai-ma-thanh-cong-cua-israel-va-nguoi-do-thai/#sthash.z2qjAqUb.dpuf